Tôi chuyển nhượng đất cấp cho hộ gia đình nên Văn phòng đăng kí đất đai yêu cầu tôi đến văn phòng công chứng làm giấy ủy quyền.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng vào tháng 9 năm 2013 (giấy chứng nhận cấp năm 1993), nhưng lúc đó tôi chưa làm thủ tục sang tên. Tháng 10 năm 2014 tôi đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất để nộp hồ sơ thì được trả lời là đất cấp cho hộ gia đình mà trong hộ khẩu chỉ có hai cha con (người vợ kết hôn trước năm 1987 nhưng có sổ hộ khẩu khác) nên yêu cầu tôi về văn phòng công chứng làm
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Điều 109 Bộ luật Dân sự quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của hộ gia đình như sau:
“1. Các thành viên của hộ gia đình chiếm hữu và sử dụng tài sản chung của hộ theo phương thức thỏa thuận.
2. Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia đình phải được các thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản chung khác phải được đa số thành viên từ đủ mười lăm tuổi trở lên đồng ý.”
Do đó, khi thực hiện quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là quyền định đoạt đối với khối tài sản chung của hộ gia đình thì cần sự đồng ý của toàn bộ các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên của gia đình. Hiện nay, việc xác định chủ sở hữu tài sản chung của hộ gia đình được dựa trên căn cứ là “Sổ hộ khẩu” của gia đình. Theo đó, những thành viên có tên trong sổ hộ khẩu gia đình tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền đất mang tên “Hộ gia đình” sẽ là những người có quyền sở hữu/sử dụng chung tài sản đó. Như vậy, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho gia đình bạn vào năm 1993 và tại thời điểm đó trong sổ hộ khẩu có tên bạn và con trai bạn thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có sự đồng ý của con trai bạn (do con trai bạn đã trên 15 tuổi), ngoài ra, tài sản hình thành trong thời kì hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng (trừ trường hợp được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 nên vợ của bạn cũng phải đứng tên trên hợp đồng.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Còn về việc Văn phòng công chứng yêu cầu bạn làm lại hợp đồng là chính xác bởi hợp đồng chuyển nhượng cũ là vô hiệu do không có sự đồng ý của con trai bạn, bạn cần làm lại hợp đồng chuyển nhượng khác (có đầy đủ chữ ký của bạn, vợ bạn và con trai bạn, trong trường hợp có người không thể có mặt tại Văn phòng công chứng vào thời điểm làm hợp đồng thì phải có văn bản uỷ quyền) rồi mới có thể làm thủ tục sang tên chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng đăng ký nhà đất theo quy định của pháp luật.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 1900.6568 để được giải đáp.
Chuyên viên tư vấn: Bùi Minh Ngọc