Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa NLĐ và NSDLĐ về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, không phải HĐLĐ nào cũng kéo dài và tồn tại vĩnh viễn mà nó có thể chấm dứt HĐLĐ vì một số lý do nào đó.
Trên thực tế vẫn thường xuyên xảy ra các tranh chấp lao động liên quan tới vấn đề chấm dứt HĐLĐ và phải nhờ tới các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Dưới đây là một số vấn đề pháp lý về “Chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.”
Chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn của NSDLĐ hoặc NLĐ trái với các quy định của pháp luật, theo đó phải gáng chịu những chế tài do pháp luật quy định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, xét về tính chất, các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật bao gồm: đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật vi phạm về mặt nội dung; đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật vi phạm về mặt thủ tục. Xét trên phương diện chủ thể, trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật bao gồm: đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật của NSDLĐ, đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ.
Vấn đề giải quyết hậu quả pháp lý trong trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật được quy định tại các Điều 42, Điều 43, Điều 47 “Bộ luật lao động năm 2019”. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu các điều luật, có thể thấy hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật tập trung vào các vấn đề sau: quyền tiếp tục làm việc của NLĐ; quyền và lợi ích vật chất của các bên chủ thể; các quyền khác của NLĐ.
- Về quyền tiếp tục làm việc của NLĐ
Đây là quyền lợi của NLĐ được áp dụng trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật do vi phạm căn cứ chấm dứt HĐLĐ được quy định tại Điều 38. Điều 42 BLLĐ quy định: “Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết…” Qua quy định trên cho thấy, trách nhiệm của NSDLĐ trong trường hợp này là phải khôi phục lại quan hệ lao động đã bị phá vỡ; nhằm bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho NLĐ, phù hợp với nguyên tắc bảo vệ NLĐ theo quy định của pháp
- Quyền và lợi ích vật chất của các bên chủ thể
Đối với người lao động:
Thứ nhất, trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật do vi phạm về mặt nội dung:
– Ngoài việc NLĐ được nhận trở lại làm việc như đã phân tích ở trên, thì NLĐ còn nhận được một khoản tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày NLĐ không được làm việc cộng vói ít nhất hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. (Khoản 1 Điều 42 BLLĐ)
– Trong trường hợp NLĐ không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản tiền được bồi thường quy định tại Khoản 1 Điều này, NLĐ còn được hưởng trợ cấp thôi việc do NSDLĐ trả theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này. Cụ thể như sau: “người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng lương.”
– Nếu NSDLĐ không muốn nhận NLĐ trở lại làm việc, thì ngoài hai khoản tiền trên, các bên thỏa thuận về khoản tiền bồi thường thêm cho NLĐ nhưng ít nhất phải bằng hai tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.
– Trong trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại Khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng và sửa đổi bổ sung hợp đồng lao động.
Thứ hai, trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật do vi phạm về mặt thủ tục: Nếu NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà vi phạm về thời hạn báo trước thì NLĐ được nhận một khoản tiền tương ứng với tiền lương của họ trong những ngày không báo trước. (Khoản 4 Điều 42 BLLĐ)
Đối với người sử dụng lao động:
Thứ nhất, trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật do vi phạm về mặt nội dung:
– NSDLĐ sẽ được NLĐ bồi thường nửa tháng lương, phụ cấp lương (nếu có) và không phải trả trợ cấp thôi việc cho NLĐ. (Khoản 1 Điều 43 BLLĐ)
– NSDLĐ sẽ nhận được khoản bồi thường chi phí đào tạo (nếu có) của NLĐ theo quy định tại Điều 62 Bộ luật này. (Khoản 3 Điều 43)
Thứ hai, trong trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật do vi phạm về mặt thủ tục: Nếu NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà vi phạm về thời hạn báo trước thì NSDLĐ được nhận một khoản tiền tương ứng với tiền lương của NLĐ trong những ngày không báo trước. (Khoản 2 Điều 43 BLLĐ)
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
- Về quyền lợi khác của NLĐ
Khi chấm dứt HĐLĐ, NLĐ còn có những quyền lợi khác như: được nhận sổ lao động (trong đó có xác nhận thời gian làm việc); được nhận sổ bảo hiểm xã hội; được doanh nghiệp trả tiền nợ lương những ngày lao động lẻ chưa đủ tháng… theo quy định tại Khoản 3 Điều 47 “Bộ luật lao động năm 2019”: “NSDLĐ có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà NSDLĐ đã giữ lại của NLĐ.”