Bài viết dưới đây là tổng hợp Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương hay nhất. Chúc các bạn có thêm nhiều kiến thức và tài liệu để ôn tập thật tốt. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương hay nhất:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả Viễn Phương và bài thơ Viếng lăng Bác.
1.2. Thân bài:
* Khổ thơ 1:
Tác giả ở phương Nam xa xôi, chỉ sau ngày đất nước độc lập mới được về thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Nhìn những rặng tre xung quanh lăng Bác, nhà thơ bỗng cảm thấy những rặng tre ấy như ý chí của nhân dân Việt Nam bao đời nay, luôn kiên cường, mạnh mẽ, kiêu hãnh.
* Khổ thơ 2:
“Ngày ngày” là sự liên tục của thời gian, sự tuần hoàn lặp lại của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Bác luôn tỏa sáng như mặt trời.
Sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người đến viếng Bác.
Viễn Phương hòa cùng dông người bày tỏ tình cảm chân thành, lòng kính trọng đối với Bác.
*Khổ thơ 3:
Bác nằm đó, nhẹ nhàng, thanh thản như đang ngủ say. Cả cuộc đời Người chỉ có một ước nguyện, đó là đất nước được thanh bình. Nên khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người mới được yên nghỉ trong giấc ngủ bình yên.
* Khổ thơ cuối:
Bao nhiêu nỗi buồn, bao nhiêu nghẹn ngào cứ thế tuôn chảy trong dòng lệ → Đó là niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là khát vọng của mỗi người Việt Nam luôn luôn mong muốn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc ta.
1.3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ của bản thân về bài thơ Viếng lăng Bác
2. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương hay nhất:
Bác Hồ là người có công lao to lớn đối với đất nước và dân tộc Việt Nam. Bác ra đi để lại niềm tiếc thương chung cho nhân loại. Bao nhiêu năm kể từ ngày Bác mất, đồng bào ta vẫn tưởng nhớ đến Người với những tình cảm chân thành nhất. Để bày tỏ tình cảm với con người, nhà thơ Viễn Phương đã viết bài thơ Viếng lăng Bác nhân dịp Bác ra Hà Nội viếng lăng Bác.
Bài thơ mở đầu bằng cảnh lăng:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Không gian vắng vẻ trang trọng nhưng cũng rất thơ mộng. Đó là hàng tre xanh ẩn hiện trong sương sớm. Hàng tre đã bao năm đứng đó, chở che, chở che, bảo vệ cho Bác bình yên. Hàng tre – biểu tượng của cuộc sống con người Việt Nam, với những phẩm chất và đức tính đáng quý. Tuy mạnh mẽ, kiên cường, trung hậu, bất khuất nhưng cũng vô cùng giản dị, mộc mạc và đoàn kết. Không phải tự nhiên mà người ta trồng tre bên lăng Bác, cũng không phải tự nhiên mà các nhà thơ đưa hình ảnh hàng tre vào thơ của mình. Dù cho gió bão, mưa giông hay thời tiết khắc nghiệt đến đâu, cây tre vẫn kiêu hãnh hiên ngang thẳng tắp, vươn mình che chở cho giấc ngủ bình yên của Người. Cả khổ thơ bao trùm Tốn là những cảm xúc đầu tiên của tác giả khi lần đầu tiên được vào Lăng viếng Bác với những cung bậc, cảm xúc khác nhau nhưng đều để lại tình cảm sâu nặng.
Khổ thơ thứ hai thể hiện tâm trạng của tác giả khi nhìn theo bóng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Khổ thơ là lời ca ngợi công lao của Bác, cũng là tình cảm thiết tha, lòng biết ơn vô hạn của mọi người dân Việt Nam đối với Bác. Hai câu đầu là hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Mặt trời của thiên nhiên trong câu thơ đầu là mặt trời của thiên nhiên, là nguồn sống của muôn loài, mọc lên và lặn đi hàng ngày như một quy luật, một sự kiện tuần hoàn của cuộc sống. Mặt trời đó quan trọng, quý giá và chỉ có một. Tuy nhiên, mặt trời tự nhiên gặp một mặt trời đẹp và tươi sáng khác. Đó là “mặt trời trong lăng” – một hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ với những hy sinh to lớn cho dân tộc. Điệp ngữ thời gian “ngày” một lần nữa được sử dụng với ý khẳng định sự liên tục. Dòng người vào lăng viếng Bác nối nhau tạo thành một “dòng người”. Và tất cả “đồng bào” đều có chung một tâm tư, tình cảm kính yêu Bác Hồ. Qua nghệ thuật ẩn dụ, dòng người nối tiếp nhau kết quả là “ tràng hoa” dành cho Bác hiện lên thật đẹp. Viễn Phương mượn hình ảnh ẩn dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để nói về tuổi của Bác. Bác mất nhưng luôn sống ở tuổi bảy mươi chín với sức xuân tràn trề. Viễn Phương cho cô được an cư lạc nghiệp và nối duyên với cha để đền ơn cha đã đến suối nguồn cho đất nước và con người Việt Nam.
Khổ thơ tiếp theo, nhà thơ Viễn Phương miêu tả hình dáng Bác Hồ cũng như bộc lộ cảm xúc của mình:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.”
Hai câu thơ đầu nói lên sự bình yên, thanh thản của Bác. Dù Bác đã về cõi vĩnh hằng không bao giờ trở lại, nhưng đối với tác giả và mọi người trên trái đất, Bác vẫn chỉ đang “ngủ”, Bác vẫn mãi mãi sống với chúng ta. Cả đời người chỉ có một niềm đam mê, đó là đất nước được hòa bình. Vì vậy, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã yên giấc ngàn thu. Người như trăng tỏa ánh sáng dịu dàng. Ánh sáng dịu hiền của một tấm lòng cao thượng, suốt đời hy sinh vì nước vì dân; vầng trăng khuyết của một đất nước, một dân tộc đã giành được độc lập, tự do.
Bầu trời bao nhiêu năm rồi vẫn xanh, một màu tồn tại mãi với thời gian. Con người ai cũng phải tuân theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử; Ai sinh ra, lớn lên rồi già đi, rồi đến lúc chết, bước vào mùa thu, vĩnh hằng, Bác Hồ cũng không ngoại lệ. Chúng ta đều biết Bác đã mất, hình ảnh Bác vẫn sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam, Bác luôn đồng hành, dõi theo từng bước đi của dân tộc. Nhưng nhận thức là vậy mà lòng vẫn có lí lẽ riêng, lòng thi nhân vẫn nhức nhối, xé lòng. Dù tự trấn an mình rằng đó là quy luật tự nhiên nhưng tim anh đau đến tận cùng. Nỗi đau ấy bất chấp mọi nhận thức của lý trí và trái tim.
Khép lại bài thơ là những cảm xúc được nhà thơ kể trước khi trở về phương Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Buồn đau biết bao, cứ ngất ngây trên cõi đời với những giọt nước mắt mừng vui sau cuộc chia tay của người con một lần nữa phải xa cha. Những từ ngữ giản dị diễn tả tình cảm của nhà thơ đối với Bác và mọi người khi phải rời khỏi lăng. Từ “trào dâng” diễn tả cảm giác luyến tiếc, tiếc nuối, hụt hẫng, không muốn rời xa nơi Bác ở. Điệp từ “muốn” được lặp lại ba lần như khẳng định lại ước nguyện của nhà thơ. Những lời chúc đó thật đáng quý biết bao! Nhà thơ muốn làm con chim hót để mang âm thanh thiên nhiên tươi đẹp đến nơi Bác yên nghỉ; muốn làm một bông hoa tỏa hương thơm cao quý; muốn làm cây tre chung thủy giữa giấc ngủ êm đềm. Hình ảnh cây tre quả là một hình ảnh đẹp, được cuộn lên một cách khéo léo ở cuối bài thơ để tạo nên một kết cấu đầu cuối tương ứng. Mở đầu bài thơ, nhà thơ cũng mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, là hình ảnh khi tác giả ngắm nhìn lăng Bác. Nó còn là hình ảnh biểu tượng cho dân tộc Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung thành canh giữ cho Bác yên giấc ngủ say. Cả bài thơ thể hiện được khát vọng cháy bỏng của tác giả, đó cũng là ước nguyện của mỗi người dân Việt Nam. Là luôn được ở bên Người, ở bên vị lãnh tụ muôn đời kính yêu của dân tộc.
Viếng lăng Bác là một bài thơ ngắn với ý thơ, hình ảnh, cảm xúc lắng đọng. Bài thơ như một khúc ca Ngàn vàng ca ngợi Bác Hồ, thể hiện một tình cảm, một tình cảm của chính nhà thơ Viễn Phương đối với Bác Hồ. Đã nhiều năm trôi qua nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị tốt đẹp ban đầu và để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ người đọc.
3. Nghị luận bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương ý nghĩa nhất:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử kính yêu nhất của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ 20. Người đã để lại hình ảnh người cha già hiền từ, người Bác kính yêu, là hiện thân của sự vĩ đại và sức mạnh của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ hình bóng của Bác trong cuộc đời, là nơi ngắm nhìn kính cẩn của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Nhiều nhà thơ đã làm thơ về Bác, về lăng Bác. Bài “Viếng mộ Bác” của Bác Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy cảm xúc, nói lên tấm lòng của người dân Nam Bộ đối với bác.
Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Lời kêu gọi giản dị mà chất chứa biết bao cảm xúc. Trong suốt cuộc đời, Người luôn nghĩ về miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha
(Bác ơi)
Ca từ của bài thơ thực sự là lời của người con miền Nam viếng Lăng Bác, nơi yên nghỉ của vị cha già dân tộc. Tình cảm trong bài thực sự là tình yêu của một người con xa quê mà nỗi nhớ da diết kéo dài như chỉ chờ gặp lại người thân là dâng hiến, thổn thức.
Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre bao quanh lăng và đã thốt lên một dòng cảm xúc:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Nhà thơ nhất định phải đến thật sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn phủ trên lăng. Men theo con đường quanh co dẫn đến những hàng tre bồng bềnh. Bát trúc bát sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh quen thuộc đã có từ bao năm trong tiềm thức của mình: “Hàng tre xanh Việt Nam/ Mưa bão rơi thẳng lối”. Một cảm giác vừa thân quen, vừa thương, vừa tự hào. Quen thuộc vì người Việt Nam nào mà không biết cây tre. Tiếc cho tre phải chịu đựng mưa bão, và tự hào cho rằng tre vẫn ngay thẳng, không nghiêng ngả. Từ sương gắn với mưa, sa cũng rất tự nhiên. Nghĩ đến Việt Nam từ cây tre cũng là điều đương nhiên, bởi “tre”, “Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ có mối liên hệ nội tại.
Không giây phút nào nói lên cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Đó hẳn là một nhóm người rất dài và tốc độ rất chậm. Trên cao khó thơ, cảnh còn mờ sương, nay mặt trời đã lên cao trên đầu. Nắng trên lăng gợi một sự liên tưởng mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
So sánh Bác Hồ với mặt trời là hình ảnh quen thuộc, nhưng so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới, khác lạ, chưa từng có. Mặt trời “rất đỏ” gợi cho ta tấm lòng, trái tim nồng nàn, tấm lòng, trái tim yêu đất nước, yêu đồng bào.
Nhìn dòng người đến viếng, nhà thơ nghĩ đến vòng hoa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Tràng hoa là một chuỗi các vòng hoa trong một vòng tròn. Từng đoàn khách đi từ sau lăng, qua lăng, vòng ra trước lăng rồi lại vòng ra trước lăng, quả nhiên tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ liên tưởng đến vòng hoa. Vì con người là những bông hoa của đất, là những con người được Bác chăm sóc. Người ta hình như không phải thăm một người đã khuất, thăm một thân xác, mà là thăm một đời người bảy mươi chín suối đã đơm hoa kết trái. Ở đây, tác giả không chỉ liên tưởng sâu xa mà còn dùng từ ngữ tinh tế, trìu mến, trân trọng.
Điệp từ “ngày tháng” được lặp lại hai lần gây cảm giác về một thời gian dài bất tận, vĩnh hằng, không bao giờ vơi, như lòng người không nguôi nhớ Bác.