Tôi đã đặt tiền cọc cho bác tôi tuy nhiên bác tôi không giao hàng cho tôi. Bác có điện ra và nói trả lại tiền cho tôi vì không mua được hàng. Đến nay bác vẫn chưa trả lại. Luật sư tư vấn tôi phải làm gì?
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có một việc muốn nhờ luật sư tư vấn giúp! Câu chuyện của tôi như thế này:
Tôi có nhờ bác rể tôi ở trong Kon Tum mua giúp cặp nanh hổ (bạn tôi nhờ tôi tìm mua giúp), tôi ở Hà Nội, một hôm đầu tháng 2, ông ấy điện thoại ra cho tôi và nói có một người bạn bên Lào, mang sang cặp nanh như thế, rồi chụp ảnh gửi email cho tôi xem, xem xong tôi cũng băn khoăn vì không biết có phải thật hay giả, rồi tôi cũng thận trọng nhờ ông ấy xem kỹ lại cho chắc vì trước đây ông ấy đã từng đi làm nhà cho các dân tộc ở Kon Tum nên hàng này ông ấy rất rành, ông ấy gọi cho tôi bảo tôi muốn lấy thì phải chuyển tiền vào đặt cọc trước, cặp nanh thì ông ấy cầm về nhà đây rồi. Chỗ bác rể, tôi tin tưởng nên tôi đã chuyển tiền vào tài khoản cho con gái ông ấy với nội dung là: "Đặt cọc trước tiền hàng cho Bác D" với số tiền là 10 triệu đồng, nhưng đến nay tôi vẫn chưa nhận được hàng của ông ấy gửi ra, tôi có điện thoại và nhắn tin cho ông ấy nhưng ông ấy cũng không trả lời, rồi đến hôm 25/03 ông ấy có nhắn tin cho tôi nói là 2 tuần nữa sẽ chuyển tiền ra trả cho tôi, vì không có hàng mà lúc trước ông ấy đã nói chắc như đinh đóng cột là đã có và bác đang giữ. Nhưng đến nay ông ấy vẫn chưa trả lại tiền tôi và tôi muốn nhờ đến pháp luật đòi lại tiền đặt cọc của mình, luật sư có thể tư vấn giúp tôi chuyện này được không?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Trước hết, giữa anh và bác D đã tồn tại quan hệ mua bán tài sản. Theo đó, bên bác D có trách nhiệm giao hàng khi đã nhận được tiền, nhưng bác D đã không thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Do đó, trong trường hợp này, anh có quyền gửi đơn khởi kiện đến tòa án nơi cư trú của bị đơn (nơi thường trú của bác D) yêu cầu giải quyết để lấy lại số tiền 10 triệu đã giao. Tuy nhiên, như anh đã trình bày, có mối quan hệ họ hàng giữa anh và bác D, để giữ được mối quan hệ cũng như không gây căng thẳng hay hiềm khích lớn thì trước hết anh cần gọi điện hoặc nhắn tin cho bác đó yêu cầu trả nợ trong thời gian nhất định, nếu bác không đồng ý trả số tiền đó thì mới làm đơn khởi kiện.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Mặt khác, do số tiền có giá trị lên tới 10 triệu nên có thể nhận thấy, ở đây đã có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự. Nếu bác D vấn cố tình không trả tiền thì anh có thể làm đơn yêu cầu khởi tố đến cơ quan công an để truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự hoặc Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 139 Bộ luật hình sự:
Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7 của Luật sư: 1900.6568 để được giải đáp.
Chuyên viên tư vấn: Đinh Thị Thanh Tâm