Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất đã được tặng cho. Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong gia đình.
Giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất đã được tặng cho. Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất trong gia đình.
Tóm tắt câu hỏi:
Em xin trình bày sự việc mong nhận được tư vấn của các vị trong thời gian sớm nhất. Vào năm 2003 gia đình em ở cùng với bà nội nhà tại An Giang. Do bà nội em phải đi nước ngoài định cư nên ba mẹ em bán nhà và theo lời đề nghị của ông nội em vào Rạch Giá, Kiên Giang sinh sống, và đề nghị ba mẹ em mua lại miếng đất của ông nội và bà nội với số tiền là 500 triệu ( là vừa bán vừa cho vì ông nội cho rằng ba mẹ là út sẽ thờ phụng tổ tiên) nhưng sau khi bà nội em không ở nước ngoài nữa về Việt Nam, bác em ở nước ngoài có giúp vốn cho ba mẹ em xây lên 20 căn nhà trọ để có thu nhập lo cho bà nội. Đến khi bà nội em mất ba mẹ em đứng tên chủ hộ 10 năm nay. Do bác em ở nước ngoài làm ăn thu lỗ nên về Việt Nam sống và đòi ba mẹ em chia đất với lý do đất đó là do ông nội cho bay giờ ông nội lấy lại không cho nữa. Nhưng ba mẹ em không đồng ý. Sau 1 thời gian do thấy anh em khổ quá ba em mới viết 1 bản viết tay với nội dung đất đó chia làm 4 phần và ký tên vào nhưng giờ mấy bác và ông em lại bảo là phải đưa lại hết không cho ba mẹ 1 phần nào hết và đem tờ giấy mà ba mẹ đã viết ra toà bảo là ba mẹ là đứng tên dùm nay đòi phải trả lại tất cả. Sự việc tóm tắt là vậy giờ gia đình em rất hoang mang không biết phải làm sao mà bên ông em lại mua chuộc chánh án quan toà hết rồi tất cả luật sư điều không chịu nhận giúp ba mẹ em. Em mong có thể nhận được sự giúp đỡ của các vị chỉ cho gia đình em biết phải làm thế nào mới có thể giữ lại phần đất cát này?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý:
– Luật đất đai 1993.
2. Giải quyết vấn đề:
Thời điểm xảy ra hợp đồng mua bán quyền sử dụng đất là vào năm 2003, luật áp dung là Bộ luật dân sự 1995 và Luật đất đai 1993 để xem tính hợp pháp của các giao dịch như sau:
Dựa vào thông tin bạn cung cấp sẽ có hai trường hợp xảy ra như sau:
Trường hợp 1: Giữa ba mẹ bạn và ông bà có xác lập một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì khi đó cha mẹ bạn có quyền đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, hợp đồng này cần phải tuân thủ điều kiện về hình thức đó là phải được công chứng, chứng thực. Căn cứ vào Điều 691 Bộ luật dân sự 1995 quy định về hình thức chuyển quyền sử dụng đất như sau:
“Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất theo quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai được thực hiện thông qua hợp đồng.
Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản có chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.”
Khi đảm bảo về mặt hình thức thì hợp đồng mới đảm bảo về mặt pháp lý và khi xảy ra tranh chấp thì không bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Anh em còn lại không có quyền yêu cầu chia, thanh toán phần tài sản là diện tích đất và nhà ở mà bố mẹ bạn đã xây dựng thuộc quyền sở hữu của bố mẹ bạn.
Tuy nhiên, vì bạn có nêu thêm về phần người bác góp vốn xây dựng, nếu bác bạn chứng minh có đóng góp xây dựng 20 phòng trọ để xác định đó là tài sản thuộc sở hữu chung theo quy định của Bộ luật dân sự 1995:
"Điều 232. Sở hữu chung hợp nhất
1- Sở hữu chung hợp nhất là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu không được xác định đối với tài sản chung.
Sở hữu chung hợp nhất bao gồm sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia và sở hữu chung hợp nhất không phân chia.
2- Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung."
Trường hợp 2: Giữa cha mẹ bạn và ông bà không có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì sẽ giải quyết như sau:
Khi bà nội bạn mất, do không biết thời điểm chính xác bà mất nên sẽ áp dụng Bộ luật dân sự 2005 để giải quyết.
Phần di sản thừa kế này sẽ được xác định như sau: Do mảnh đất này là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của ông bà bạn nên khi bà nội bạn mất đi, phần di sản thừa kế là một nửa tài sản chung của ông bà. Khi đó, ½ quyền sử dụng mảnh đất là thuộc về ông bạn còn ½ còn lại sẽ chia thừa kế do bà bạn đã mất. Khi bà bạn mất nếu có di chúc thì di sản thừa kế chia theo di chúc. Còn nếu không có di chúc thì phần di sản sẽ được chia theo pháp luật. Căn cứ Điều 676 Bộ luật dân sự 2005 có quy định như sau:
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất: 1900.6568
Do vậy, cha bạn vẫn thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên vẫn có quyền yêu cầu chia thừa kế và có quyền hưởng thừa kế phần di sản này. Căn cứ Điều 645 Bộ luật dân sự 2005 về thời hiệu khởi kiện về thừa kế:
‘‘Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.’’
Vì vậy, cha bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.