Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm. Quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1. Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật tố tụng dân sự 2004;
– Luật sửa, đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2011;
2. Luật sư tư vấn:
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc đảm bảo thi hành án.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời có những đặc điểm khác với các biện pháp khác mà Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án đó là:
Biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trước khi thụ lí vụ việc dân sự, còn tất cả các biện pháp, quyết định khác chỉ có thể được áp dụng sau khi Tòa án đã thụ lí.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời luôn mang trong nó hai tính chất đó là tính khẩn cấp và tính tạm thời. Tính khẩn cấp của biện pháp này được thể hiện ở chỗ tòa án phải ra quyết định áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời và được thực hiện ngay sau khi tòa án ra quyết định áp dụng, nếu không sẽ không còn ý nghĩa trên thực tế. Tính tạm thời của biện pháp này được thể hiện ở chỗ: nó không phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự, nó chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Sau khi ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu có lí do của việc áp dụng không còn nữa thì tòa án có thể hủy bỏ quyết định này ngay trong quá trình chuẩn bị xét xử, hoặc khi tòa án ra quyết định cuối cùng sẽ phải có phán quyết về biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tòa án đã áp dụng.
Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời với mục đích giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng để đảm bảo việc thi hành án. Đồng thời, góp phần ngăn chặn các hành vi sai trái, bảo vệ chứng cứ, giữ nguyên giá trị chứng minh của chứng cứ, giúp cho việc giải quyết vụ việc dân sự được chính xác. Khi lí do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không còn thì tòa án có thể hủy bỏ việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nó thể hiện sự linh hoạt trong tố tụng sẽ góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của công dân.
Hiện nay, theo quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì có 12 biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đó là: Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục (Điều 103 Bộ luật tố tụng dân sự); Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 104); Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại (Điều 112); Phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản đang gửi giữ và việc áp dụng biện pháp này là cần thiết để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án (Điều 113); Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người có nghĩa vụ có tài sản và việc áp dụng biệp pháp này là cần thiết để ảo đảm cho việc giải quyết vụ án hoặc thi hành án (Điều 114); Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định (Điều 115) và các biệp pháp khẩn cấp tạm thời khác mà pháp luật có quy định.
1. Ở tòa án cấp sơ thẩm
a. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Về chủ thể có quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là nhằm bảo đảm việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Đối tượng có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại khoản 1 Điều 99 Luật sửa, đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 và Điều 1 Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP thì những chủ thể này bao gồm:
+ Các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự;
+ Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Như các cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ khởi kiện vụ án về hôn nhân ga đình theo quy định tại
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 119 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 tòa án có thể tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp đương sự không có yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với một số biện pháp quy định tại khoản 1,2,3,4,5 Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự 2004.
Về điều kiện áp dụng, theo quy định tại Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP thì chỉ khi có đầy đủ các điều kiện sau đây, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện (đơn khởi kiện cần làm đúng theo quy định tại Điều 164 Luật sửa, đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 thì cá nhân, cơ quan, tổ chức mới có quyền yêu cầu tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự 2004: Do tình thế khẩn cấp, tức là cần phải được giải quyết ngay, không chậm trễ; cần phải bảo vệ ngay bằng chứng trong trường hợp nguồn chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau này khó có thể thu thập được; ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra (có thể là hậu quả về vật chất hoặc phi vật chất).
Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng một biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể khi có đầy đủ các điều kiện do Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định đối với biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
Ví dụ: Tòa án chỉ tự mình ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng quy định tại Điều 104 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng, xét thấy yêu cầu cấp dưỡng đó là có căn cứ, nếu không buộc thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, đời sống của người được cấp dưỡng. Khi tự mình ra quyết định áp dụng một biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể, ngoài việc thực hiện đúng quy định tại điều luật tương ứng của Bộ luật tố tụng dân sự 2004, tòa án cần phải căn cứ vào các quy định của pháp luật liên quan để có quyết định đúng.
Về thời điểm và thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 thì biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được áp dụng trong suốt quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Điều này có nghĩa là tòa án có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời vào bất cứ thời điểm nào trước và trong khi xét xử. Thậm chí, theo theo quy định tại khoản 2 Điều 99, trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần bảo vệ ngay bằng chứng, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu tòa án áp dụng ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời vào cùng thời điểm nộp đơn khởi kiện. Quy định này của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã tạo ra sự năng động, kịp thời trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự, đồng thời khắc phục được hạn chế của pháp luật tố tụng trước đây chỉ cho phép áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời vào thười điểm trước khi xét xử.
Ví dụ: Ông A mua nhà của ông B và xảy ra tranh chấp. Ông A đã giao tiền nhưng ông B không chịu giao nhà. Thấy ông B có dấu hiệu phá hủy, tháo dỡ các công trình phụ trong ngôi nhà đang tranh chấp. Ông A đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu ông B phải giao nhà đồng thời nộp đơn yêu cầu tòa án kê biên căn nhà nói trên để sau này nếu thắng kiện thì tình trạng căn nhà vẫn nguyên vẹn như khi hai bên thỏa thuận mua bán ban đầu.
Về thẩm quyền áp dụng, Tòa án có thẩm quyền ra quyết định biện pháp khẩn cấp tạm thời là tòa án có thẩm quyền thụ lí đơn khởi kiện và giải quyết vụ án theo quy định tại các Điều 33, 34, 35 và 36 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và Luật sửa, đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự năm 2011. Trước khi mở phiên tòa, việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời do một thẩm phán xem xét quyết định; Tại phiên tòa do Hội đồng xét xử xem xét quyết định.
Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải làm đơn gửi đên tòa án giải quyết vụ án dân sự. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải có các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 117 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu cầu còn phải cung cấp cho tòa án các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Chính quy định này sẽ hạn chế việc đưa ra yêu cầu không có căn cứ từ phía những người có quyền yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời cũng giúp tòa án có cơ sở rõ ràng để nhanh chóng ra được quyết định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án (kể từ thời điểm tòa án thụ lý vụ án). Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và mục 5 Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP, thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét quyết định trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày nhận đơn, nếu người yêu cầu không phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Nếu người yêu cầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm thì ngay sau khi người đó thực hiện biện pháp bảo đảm, thẩm phán phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán phải
Trong trường hợp tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận dược yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại khoản 2 Điều 117 và tiểu mục 5.5 Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP thì Hội đồng xét xử phải xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo, hỏi ý kiến của người yêu cầu và người bị yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thảo luận và thông qua tại phòng xử án.
Trong trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời được thục hiện cùng với đơn khởi kiện thì theo quy định tại khoản 3 Điều 117 và mục 6 Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP, khi nhận được đơn yêu cầu cùng với đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo, Chánh án tòa án chỉ định một thẩm phán thụ lí giải quyết đơn yêu cầu. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn khởi kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của tòa án mà họ yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không. Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời và các chứng cứ kèm theo cho họ. Nếu thuộc thẩm quyền thì thử tục được áp dụng tương tự đối với trường hợp đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án. Trong trường hợp tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước, phong tỏa tài khoản phải có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có nghĩa vụ phải thực hiện.
Như vậy, so với trước đây, thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã được quy định cụ thể và phù hợp hơn rất nhiều. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
b. Việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời
Trước đây do các văn bản pháp luật tố tụng dân sự chưa quy định việc thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời nên trong thực tiễn áp dụng đã có những trường hợp tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sai, không phù hợp, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của bên đương sự bị áp dụng nhưng vẫn không thay đổi, hủy bỏ được biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Hiện nay, Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định việc thay đổi, hủy bỏ được biện pháp khẩn cấp tạm thời mà tòa án áp dụng để bảo vệ quyền lợi của đương sự. Thẩm quyền xem xét để ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định cụ thể tại Điều 100 Bộ luật tố tụng dân sự 2004. Theo điều luật này nếu yêu cầu thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được đưa ra vào thời điểm trước khi mở phiên tòa thì thẩm quyền quyết định sẽ do một thẩm phán thực hiện. Nếu yêu cầu đó đưa ra vào thời điểm tại phiên tòa thì thẩm quyền xem xét, quyết định sẽ do Hội đồng xét xử. Các quyết định này có hiệu lực thi hành ngay, tòa án phải thông bảo quyết định này tới các chủ thể liên quan.
Về thay đổi
Theo quy định tại điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và theo mục 10 Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP thì thủ tục thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng tương tự như thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đã nêu trên, tuy nhiên cần lưu ý:
Trong tường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đơn yêu cầu tòa án thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời có lợi cho bị đơn thì tòa án cần chấp nhận ngay đơn yêu cầu của họ. Nếu xét thấy yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của họ là đúng không gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba thì khi quyết định thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời tòa án quyết định cho họ nhận lại một phần hoặc toàn bộ kim khí quý, đá quý, giấy tờ có giá hoặc số tiền đảm bảo mà họ đã gửi giữ ở ngân hàng theo quyết định của tòa án (đối với trường hợp khi thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời họ phải thực hiện biện pháp bảo đảm ít hơn biệp pháp bảo đảm mà họ đã thực hiện).
Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đơn xin thay đổi biện pháp khẩn cấp tạm thời mà việc thay đổi đó không có lợi cho bị đơn hoặc có đơn xin tòa án áp dựng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác, thì tòa án yêu cầu họ phải trình bày rõ trong đơn lí do xin thay đổi hoặc áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời khác và cũng cần cung cấp các tài liệu cần thiết chứng minh cho yêu cầu của mình là chính đáng.
Về hủy bỏ (Điều 122)
Người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đơn đề nghị tòa án hủy bỏ. Người phải thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu.
Nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ chấm dứt theo quy định của “Bộ luật dân sự 2015”. Khi thi hành quy định tại Điều 122 của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 cần lưu ý:
Trong trường hợp bên yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đơn yêu cầu tòa án hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì tòa án phải chấp nhận ngay đơn yêu cầu của họ. Trong trường hợp này, nếu xét thấy yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của họ là đúng thì khi quyết định hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tòa án quyết định cho họ được nhận lại toàn bộ sô tiền bảo đảm mà họ đã gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định tại tòa án.
Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, cho người thứ ba nhưng người bị thiệt hại không có yêu cầu bồi thường thì tòa án quyết định cho người yêu cầu được lấy lại toàn bộ số tiền bảo đảm mà họ gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của tòa án.
Trong trường hợp người yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng, có gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc cho người thứ ba mà người bị gây thiệt hại có đơn yêu cầu bồi thường với số tiền thấp hơn số tiền bảo đảm được gửi giữ tại ngân hàng theo quyết định của tòa án thì tòa án quyết định cho ngườ yêu cầu được lấy lại số tiền vượt quá mức người bị gây thiệt hại yêu cầu bồi thường.
Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời có hiệu lực thi hành ngay. Khi ban hành quyết định này, tòa án gửi cho cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, có quan thi hành án dân sự có thẩm quyền và viện kiểm sát cùng cấp. Cơ quan thi hành án chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.
2. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án cấp phúc thẩm
Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời ở tòa án cấp phúc thẩm được quy định tại điều 261 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 như sau: “ Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Chương VIII của Bộ luật này”.
Về cơ bản, các quy định tại chương VIII Bộ luật tố tụng dân sự 2004 là những quy định nhằm áp dụng cho các giai đoạn xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Do đó trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thẩm nếu có yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời thì việc xem xét, giải quyết được thực hiện theo quy định tại chương VIII của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP như đã trình bày ở trên.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật dân sự qua tổng đài: 1900.6568
Trong trường hợp đương sự kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm mà trong đơn kháng cáo hoặc kèm theo đơn kháng cáo, đương sự khiếu nại quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của tòa án sơ thẩm thì tòa án phúc thẩm thông báo ngay cho họ biết là tòa án phúc thẩm không có quyền giải quyết khiếu nại và giải thích cho họ biết họ có quyền yêu cầu tòa án phúc thẩm thay đổi, áp dụng bổ sung biện pháp khẩn cấp tạm thời, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng hoặc ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự 2004.