Những vấn đề pháp lí liên quan đến trách nhiệm của chủ hụi khi có những hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản của người tham gia chơi hụi theo quy định pháp luật hiện hành
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi nhờ người khác chơi hụi dùm(số tiền trên 18 triệu) ,giờ người đó nói chủ hụi nói giờ không có tiền chi trả lại.muốn làm gì thì làm (người đó đang làm trong một bệnh viện). Vậy cho tôi xin hỏi, nếu trường hợp như vậy, tôi có thể nhờ pháp luật xử lý được không? Xin cho tôi hướng giải quyết.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
Chơi hụi là một hình thức huy động vốn trong dân gian của Việt Nam và thường do phụ nữ thwucj hiên. Tuy nhiên, đến Bộ luật dân sự năm 2005 vấn đề này mới được pháp luật Việt Nam công nhận, đưa vào trở thành một vấn đề được pháp luật điều chỉnh, bảo vệ quyền lợi. Vấn đề này được cụ thể hóa tại Điều 479 Bộ luật dân sự 2005 và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị định 144/2006/ND-CP .Và theo Căn cứ vào Nghị định 144/2006/NĐ-CP thì chủ hụi có trách nhiệm thanh toán tiền hụi cho các hội viên đã góp hụi và một trong những nghĩa vụ của bên mượn tài sản (chủ họ) là "trả lại tài sản mượn đúng thời hạn; nếu không có thoả thuận về thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được" theo khoản 3 Điều 514 Bộ luật dân sự 2005.
Trong trường hợp chủ hụi không trả tiền cho các hụi viên thì chủ hụi có thể bị khởi kiện ra tòa theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009), tại Điều 140 đã quy định cụ thể về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
“1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ một triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới một triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ trên năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Tái phạm nguy hiểm;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này".
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Như vậy, theo những quy định của pháp luật về vấn đề này, trong trường hợp mà chủ hụi dùng thủ đoạn để không trả tiền thì bạn có thể tố cáo người đó đến cơ quan công an cấp huyện về hành vi lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản. Và theo như bạn phản ánh thì số tiền mà chủ hụi chiếm đoạt là 18 triệu đồng, với số tiền đó có thể khởi tố về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 Điều 140 Bộ luật hình sự 1999.
Hy vọng rằng sự tư vấn của chúng tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu còn bất cứ thắc mắc gì liên quan đến sự việc bạn có thể liên hệ Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568 để được giải đáp.