Xử lý vi phạm đối với người chưa đủ 16 tuổi điều khiển phương tiện giao thông. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa đủ 16 tuổi.
Xử lý vi phạm đối với người chưa đủ 16 tuổi điều khiển phương tiện giao thông. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa đủ 16 tuổi.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào văn phòng
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
+ Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi 2009
+ Luật xử lý vi phạm hành chính 2012
+ Luật Giao thông đường bộ 2008
+ Thông tư 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC
2. Giải quyết vấn đề
Xử lý vi phạm đối với người điều khiển phương tiện khi chưa đủ tuổi
Căn cứ Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định đối tượng bị xử lý vi phạm hành chính:
“1. Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính.”
Đối tượng A sinh ngày 02/10/2002, tính đến thời điểm gây tai nạn ngày 24/9/2017 là 14 tuổi 11 tháng 22 ngày (trên 14 tuổi và dưới 16 tuổi) sẽ bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý. Hành vi chưa đủ tuổi mà điều khiển xe mô tô, xe gắn máy là hành vi cố ý, vi phạm quy định của Điều 60 Luật Giao thông đường bộ 2008
Đối tượng A đã điều khiển xe máy khi chưa đủ tuổi sẽ bị phạt cảnh cáo theo Khoản 1 Điều 21
“1. Phạt cảnh cáo người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi điều khiển xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự xe mô tô hoặc điều khiển xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô.”
Trách nhiệm bồi thường dân sự
Đối tượng A vi phạm quy tắc an toàn giao thông gây tai nạn cho con bạn nên sẽ phải chịu trách nhiệm nhưng cũng phải xét đến trường hợp lỗi có hoàn toàn thuộc đối tượng A hay không?
Nếu trường hợp lỗi hoàn toàn không thuộc về đối tượng A, tức là con bạn lao ra đường do không chú ý quan sát hoặc do cha mẹ không quản con khi chơi ngoài đường, A không phải là người gây hậu quả trực tiếp thì sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Nếu trường hợp lỗi thuộc đối tượng A, nhưng do A chưa đủ 16 tuổi nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ do cha mẹ hoặc người giám hộ chịu trách nhiệm.
Căn cứ theo quy định tại Điều 586 Bộ luật dân sự 2015 quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân:
"Điều 586. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân
1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường."
Như vây, A chưa đủ 15 tuổi (14 tuổi, 11 tháng 22 ngày) nếu trường hợp đối tượng A còn cha mẹ thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ do cha mẹ bồi thường, nếu cha mẹ đã mất thì người giám hộ phải chịu trách nhiệm, trong trường hợp tài sản của cha,mẹ không đủ để bồi thường mà A có tài sản riêng thì phải lấy tài sản riêng của A để bồi thường thiệt hại phần còn thiếu.
Mức bồi thường thiệt hại được xác định theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 gồm:
– Chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe
– Chi phí cho người chăm sóc
– Chi phí bồi thường tổn thất tinh thần
– Các thiệt hại khác do luật định.
Về mặt nguyên tắc, mức bồi thường, phương thức bồi thường và hình thức bồi thường sẽ do các bên thoả thuận, nếu trong trường hơp không thoả thuận được thì các bên khởi kiện ra Toà án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật xử lý vi phạm giao thông: 1900.6568
Trách nhiệm của chủ sở hữu phương tiện:
Căn cứ khoản 1 Điều 205 của Bộ luật hình sự 1999 có quy định về việc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ như sau:
“Người nào điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm
…”.
Việc giao xe cho người không đủ điều kiện (chưa đủ tuổi) gây thiệt hại về tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe cho người khác mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Điều 2, Thông tư
– Làm chết một người;
– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
– Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
– Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
– Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng
Như vậy, nếu người chủ sở hữu chiếc xe máy biết rõ đối tượng A không đủ điều kiện điều khiển xe máy nhưng vẫn giao xe cho để điều khiển và gây tai nạn mà gây hậu qủa nghiêm trọng thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì người chủ sở hữu chiếc xe có hể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ.
Còn nếu họ không biết, không có khả năng biết người được giao xe chưa đủ 16 tuổi thì họ không phải chịu trách nhiệm khi có hậu quả xảy ra.
Trách nhiệm hình sự đối với người chưa đủ 16 tuổi
Theo quy định của Bộ luật Hình sự 1999, Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau: người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc nghiệm trọng.
Căn cứ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi 2009 vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông trong khi điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác
Cấu thành tội phạm:
Chủ thể: Là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự không mắc các bệnh làm mất hoặc hạn chế khả năng nhận thức, hành vi
Khách thể: Xâm phạm An toàn khi tham gia giao thông đường bộ, tính mạng, sức khỏe của người khác
Mặt khách quan: hành vi khách quan là hành vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ
Mặt chủ quan: Lỗi vô ý
+ Vô ý do tự tin, trong trường hợp người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
+ Vô ý do cẩu thả, trường hợp người vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không thấy trước hành vi của mình có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Đối với trường hợp đối tượng A chưa đủ 16 tuổi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng do cố ý hoặc hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nên trong trường hợp này, cần tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi để xác định xem A có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?