Vay tiền được xem là một trong những loại giao dịch dân sự phổ biến diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên không ít trường hợp xảy ra tình trạng người vay đã có hành vi bỏ trốn không thực hiện nghĩa vụ do không còn khả năng. Vậy cần phải xử lý như thế nào khi người vay tiền đánh bạc nhưng không còn khả năng trả nợ?
Mục lục bài viết
1. Cách xử lý vay tiền đánh bạc nhưng không còn khả năng trả nợ:
Trước hết, vay tiền là một trong những loại giao dịch dân sự phổ biến nhất. Căn cứ theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay. Cụ thể như sau:
-
Bên vay tài sản là tiền thì phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trả đầy đủ số tiền khi đến thời hạn theo sự thỏa thuận của các bên. Nếu tài sản là vật thì bắt buộc phải có nghĩa vụ trả vật cùng loại đúng số lượng, đúng chất lượng, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
-
Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì hoàn toàn có thể trả bằng tiền theo giá trị của vật đã vay tính tại thời điểm trả nợ và địa điểm trả nợ, trong trường hợp được bên cho vay đồng ý;
-
Địa điểm trả nợ được xác định là nơi cư trú (có thể là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú), hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
-
Trong trường hợp vay không tính lãi mà khi đến thời hạn trả nợ, bên vay không trả nợ hoặc có trả nhưng trả không đầy đủ thì bên cho vay sẽ có quyền yêu cầu trả thêm tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 dựa trên số tiền chậm trả tương ứng với khoảng thời gian chậm trả, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật liên quan có quy định khác;
-
Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến thời hạn trả nợ, bên vay không trả hoặc có trả nhưng trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi theo quy định như sau: Lãi trên nợ gốc sẽ được tính theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay đến hạn chưa trả; trong trường hợp chậm trả thì bên vay còn phải có nghĩa vụ trả lãi theo mức lãi suất được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015. Đồng thời, lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả được xác định bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Như vậy có thể nói, trong trường hợp cho người khác vay tiền đánh bạc nhưng bên vay không còn khả năng trả nợ thì có thể xử lý theo các phương án như sau:
Thứ nhất, thực hiện thủ tục khởi kiện ra Tòa án và không công khai mục đích cho vay để đánh bạc. Trong trường hợp bên cho vay thực hiện thủ tục khởi kiện đòi nợ và cả hai đều không nói rõ lý do là vay tiền để đánh bạc thì đây sẽ được coi là một hợp đồng vay tài sản thông thường và có giá trị pháp lý ràng buộc, bên vay cần phải có nghĩa vụ trả nợ cho bên cho vay. Sẽ căn cứ theo quy định tại Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015 theo như phân tích nêu trên để xử lý phần nghĩa vụ của bên vay. Cụ thể như sau:
-
Trong trường hợp vay không có lãi: Bên vay cần phải có nghĩa vụ và trách nhiệm trả lãi tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả, ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;
-
Trong trường hợp vay có lãi: Lãi phải trả được xác định bằng 150% lãi suất cho vay theo hợp đồng tính trên phần nợ gốc quá hạn chưa trả, tương ứng với khoảng thời gian chậm trả.
Theo đó, bên vay cần phải có nghĩa vụ và trách nhiệm thanh toán đầy đủ khoản tiền nợ cho bên cho vay. Nếu bên vay không trả được nợ đúng thời hạn hoặc bên vay mất khả năng trả nợ thì cơ quan có thẩm quyền đó là Toà án sẽ ban hành bản án bắt buộc bên tay phải có trách nhiệm thanh toán đầy đủ khoản nợ đó. Nếu sau khi tòa xét xử và tuyên án mà bên vay vẫn không chấp hành bản án đó thì cơ quan thi hành án sẽ thực hiện thủ tục cưỡng chế thi hành. Khi đó, nếu bên vay không có tài sản riêng để thi hành án thì cơ quan thi hành án dân sự sẽ tiến hành thủ tục kê biên, phong tỏa tài sản hoặc một số biện pháp cưỡng chế khác để nhằm mục đích thu hồi đầy đủ số tiền còn nợ theo bản án cho bên khởi kiện.
Thứ hai, thực hiện thủ tục khởi tiện ra Tòa án và đồng thời công khai lý do cho vay để đánh bạc. Trong trường hợp kiện ra Tòa án mà các bên công khai rõ mục đích vay tiền là để đánh bạc thì sẽ áp dụng theo Điều 123 của Bộ luật dân sự năm 2015 về vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật và trái đạo đức xã hội. Theo đó:
-
Giao dịch dân sự có mục đích hoặc có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì sẽ bị tuyên vô hiệu;
-
Điều cấm của pháp luật được xác định là những quy định của luật không cho phép các chủ thể thực hiện;
-
Đạo đức xã hội được xem là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, những chuẩn mực đó đã được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Khi đó, hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015. Theo đó, giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền lợi, nghĩa vụ dân sự của các bên được tính bắt đầu kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên bắt buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau tất cả những gì đã nhận. Trong trường hợp các bên không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì có thể quy đổi thành tiền để hoàn trả, bên nào có lỗi gây ra thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Theo đó, Tòa án sẽ tuyên hợp đồng vay tài sản là hợp đồng vô hiệu do hợp đồng đó có mục đích cho vay tiền để chơi đánh bạc, đánh bạc được xác định là hành vi vi phạm điều cấm của pháp luật. Khi đó các bên cần phải có nghĩa vụ khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, cũng có rủi ro đó là khi công khai mục đích vay tiền của các bên là để đánh bạc thì các bên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc căn cứ theo quy định tại Điều 321 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2017.
2. Vay tiền đánh bạc xong bỏ trốn không trả nợ do không còn khả năng trả nợ thì bị xử lý thế nào?
(1) Chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 15 của Nghị định 144/2021/NĐ-CP, có quy định về mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về các thiệt hại đến tài sản của tổ chức, cá nhân khác. Theo đó, phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với các đối tượng thực hiện một trong những hành vi vi phạm quy định của pháp luật như sau:
-
Trộm cắp tài sản, có hành vi xâm nhập trái phép vào khu vực nhà ở, kho bãi hoặc những địa điểm khác thuộc quyền quản lý hợp pháp của người khác nhằm mục đích trộm cắp tài sản hoặc chiếm đoạt tài sản;
-
Thực hiện hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác tuy nhiên chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
-
Sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hoặc đến thời điểm phải trả lại tài sản do vay mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác thông qua hình thức hợp đồng, mặc dù có đầy đủ điều kiện và đầy đủ khả năng để trả tuy nhiên cố tình không hoàn trả;
-
Không trả lại tài sản cho người khác do thuê, vay mượn hoặc nhận được tài sản của người khác thông qua hình thức hợp đồng tuy nhiên đã sử dụng tài sản đó vào mục đích trái phép dẫn đến không còn đủ khả năng để trả lại tài sản;
-
Thiếu trách nhiệm dẫn đến việc gây ra hậu quả, thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp.
Đồng thời, người có hành vi trốn nợ còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là tịch thu tang vật, tịch thu phương tiện vi phạm hành chính.
(2) Truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 175 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2017 có quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo đó, người vay tiền đánh bạc xong cố tình bỏ trốn do không còn khả năng trả nợ hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi thỏa mãn đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm: Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác với giá trị từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng tuy nhiên đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã từng bị kết án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc một trong các tội danh được quy định tại Điều 168, Điều 169, Điều 170, Điều 171, Điều 172, Điều 173, Điều 174, Điều 290 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2017, tuy nhiên chưa thực hiện thủ tục xóa án tích mà còn tiếp tục vi phạm; hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của bị hại và gia đình của họ:
-
Vay mượn hoặc thuê tài sản của người khác, nhận được tài sản của người khác thông qua hợp đồng hợp pháp rồi sử dụng nhiều thủ đoạn gian dối khác nhau hoặc bỏ trốn để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản đó, hoặc đến thời hạn phải trả lại tài sản mặc dù có đầy đủ điều kiện để trả nhưng cố tình không trả;
-
Vay mượn hoặc thuê tài sản của người khác, nhận được tài sản của người khác thông qua hình thức hợp đồng hợp pháp và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp (mại dâm, ma túy, buôn lậu, đánh bạc …) dẫn đến việc không có khả năng để hoàn trả lại tài sản.
Khi đó, khung hình phạt thấp nhất là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm; khung hình phạt cao nhất là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc cấm làm công việc nhất định trong khoảng thời gian từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc tịch thu toàn bộ tài sản.
Như vậy, người vay tiền có hành vi cố tình bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản hoàn toàn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
3. Cho người khác vay tiền để đánh bạc thì người cho vay có bị đi tù không?
Theo quy định của pháp luật hiện nay thì đánh bạc là một trong những hành vi bị nghiêm cấm. Căn cứ theo quy định tại Điều 321 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2017 có quy định về tội đánh bạc. Theo đó, người nào có hành vi đánh bạc trái phép dưới hình thức được thua bằng tiền hoặc hiện vật nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây thì có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
-
Đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc hiện vật với giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;
-
Đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hoặc bằng hiện vật có giá trị dưới 5.000.000 đồng tuy nhiên đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc hoặc hành vi được quy định cụ thể tại Điều 322 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2015 hoặc đã từng bị kết án về tội đánh bạc tuy nhiên chưa thực hiện thủ tục xóa án tích mà còn tiếp tục vi phạm;
-
Trong trường hợp nặng nhất thì người có hành vi đánh bạc trái phép còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự lên tới 07 năm tù;
-
Người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung đó là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại Điều 17 của Văn bản hợp nhất Bộ luật hình sự năm 2015 có quy định về đồng phạm. Theo đó, đồng phạm là khái niệm để chỉ trường hợp có 02 người trở lên cùng nhau cố ý thực hiện một tội phạm. Đồng phạm bao gồm nhiều loại: Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục và người giúp sức.
Đối với trường hợp cá nhân cho người khác vay tiền với mục đích để đánh bạc thì có thể chia thành các trường hợp sau:
Thứ nhất, người cho vay tiền không biết người vay sử dụng khoản tiền đó để đánh bạc thì trong trường hợp này, việc cho vay tiền chỉ được coi là một giao dịch dân sự thông thường, hợp pháp. Khi đó, người cho vay sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không bị xử phạt vi phạm hành chính.
Thứ hai, người cho vay hoàn toàn biết rõ mục đích của bên vay là sử dụng khoản tiền đó để đánh bạc nhưng vẫn cố tình cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho người vay đánh bạc trái phép, trong trường hợp này người cho vay có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với vai trò là đồng phạm giúp sức.
THAM KHẢO THÊM: