Quyền tự do lựa chọn nơi cư trú là quyền hiến định của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Nơi cứ trú là căn cứ quan trọng để nhà nước quản lý dân cư một cách thống nhất và đồng bộ. Nơi cư trú của cá nhân là gì? Xác định nơi cư trú của cá nhân như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Nơi cư trú của cá nhân là gì?
Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì khái niệm “nơi cư trú” được quy định ở nhiều văn bản.
Theo Điều 40
Theo quy định tại Luật cư trú năm 2006 nêu rõ: Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú. Trong đó, chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật; Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú.
Khái niệm giữa Bộ luật dân sự và Luật cư trú đã có sự tương đồng, tuy nhiên khái niệm ở Luật cư trú được quy định rõ hơn, chi tiết hơn, dễ dàng xác định hơn.
Tuy nhiên, tại Luật cư trú năm 2020, khái niệm nơi cư trú không còn được ghi nhận, mà chỉ quy định về nội dung của nơi cư trú bao gồm nơi tạm trú và nơi thường trú, trong đó, Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống ổn định, lâu dài và đã được đăng ký thường trú và nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống trong một khoảng thời gian nhất định ngoài nơi thường trú và đã được đăng ký tạm trú. Về cơ bản, khái niệm nơi thường trú và nơi tạm trú được quy định trong hai Luật cư trú là không có sự khác biệt nhiều, nhưng ở Luật cư trú năm 2020 vẫn có sự thay đổi và phát triển trên tinh thần của điều luật cũ.
Như vậy, trên cơ sở các khái niệm theo quy định của luật định, tác giả rút ra khái niệm tổng quát như sau:
Nơi cư trú là nơi người đó thường xuyên sinh sống, có đăng ký thường trú, tạm trú hoặc là đơn vị đóng quân đối với trường hợp là người đang làm nghĩa vụ quân sự hoặc đang có thời hạn trong Công an nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạn sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân, viên chức Công an nhân dân.
2. Nơi cư trú có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nơi cư trú là biểu hiện của việc thực hiện quyền cư trú, là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc đơn vị hành chính cấp xã hoặc đơn vị hành chính cấp huyện ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã (sau đây gọi chung là đơn vị hành chính cấp xã).
Thứ hai, nơi cư trú được pháp luật ghi nhận thông qua hoạt động đăng ký thường trú hoặc tạm trú (khi đáp ứng các điều kiện luật định).
Thứ ba, nơi cư trú của cá nhân có cách xác định áp dụng đối với một số đối tượng đặc biệt, đó là người chưa thành niên, người được giám hộ; vợ, chồng; người học tập, công tác làm việc trong lực lượng vũ trang,…
Việc xác định nơi cư trú có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cá nhân:
Một là, bảo vệ quyền của cá nhân, bảo đảm sự ổn định các quan hệ dân sự về quản lý nhà nước về cư trú đối với cá nhân.
Hai là, là nơi thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự, nơi phát sinh và tiếp nhận hàng loạt các sự kiện pháp lý, ví dụ là nơi mở thừa kế khi công dân chết, nơi xác định cá nhân đã chết, hoặc mất tích, nơi Tòa án có quyền giải quyết các giấy tờ mà cá nhân là bị đơn.
3. Xác định nơi cư trú của cá nhân:
Thông thường nơi cư trú được áp dụng với cá nhân được xác định theo quy định về thường trú và tạm trú; cá nhân phải thực hiện các thủ tục hành chính để đăng ký thường trú, tạm trú, đây là căn cứ để nhà nước quản lý và tiếp nhận công dân tại một đơn vị hành chính nhất định.
Việc xác định nơi cư trú của cá nhân áp dụng đối với một số chủ thể đặc biệt sẽ được tác giả phân tích cụ thể như sau:
Đối với nơi cư trú của người chưa thành niên:
Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi. Nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Người chưa thành niên có quyền có nơi cư trú khác với nơi cư trú của cha, mẹ nếu được cha, mẹ đồng ý, cho phép hoặc pháp luật có quy định, nơi cư trú của người chưa thành niên có thể do Tòa án quyết định trong trường hợp cha, mẹ không thỏa thuận được nơi cư trú.
Đối với nơi cư trú của người được giám hộ
Nơi cư trú của người được giám hộ là nơi cư trú của người giám hộ, người được giám hộ có quyền có nơi cư trú khác nếu được người giám hộ đồng ý hoặc theo pháp luật quy định.
Đối với nơi cư trú của vợ, chồng
Vợ, chồng là mối quan hệ hôn nhân được thiết lập theo quy định của pháp luật, pháp
Đối với nơi cư trú của người học tập, công tác, làm việc trong lực lượng vũ trang (hay còn gọi là nơi cư trú của quân nhân)
Người học tập, công tác, làm việc trong lực lượng vũ trang bao gồm: sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng, sinh viên, học viên các trường Quân đội nhân dân; sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, học sinh, sinh viên, học viên các trường Công an nhân dân, hạ sĩ quan nghĩa vụ, chiến sĩ nghĩa vụ, công nhân công an.
Nơi cư trú của các đối tượng này là nơi đơn vị của người đó đóng quân, trừ trường hợp sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng có nơi cư trú khác hoặc là nơi đơn vị của người đó đóng quân, trừ trường hợp sĩ quan nghiệp vụ, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật, công nhân công an có nơi cư trú khác theo quy định.
Đối với nơi cư trú của người sinh sống, người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền hoặc phương tiện khác có khả năng di chuyển (hay còn gọi là nơi cư trú của người làm nghề lưu động)
Nơi cư trú của các đối tượng này được xác định dựa vào nơi đăng ký phương tiện đó, trừ trường hợp có nơi cư trú khác. Đối với phương tiện không phải đăng ký hoặc có nơi đăng ký phương tiện không trùng với nơi thường xuyên đậu, đỗ thì nơi cư trú của người sinh sống, người làm nghề lưu động là nơi phương tiện đó thường xuyên đậu, đỗ.
Đối với nơi cư trú của người không có nơi thường trú, nơi tạm trú
Người không có nơi thường trú, nơi tạm trú xuất phát từ nguyên nhân là do không đủ điều kiện đăng ký thường trú, nơi đăng ký của đối tượng này là nơi ở hiện tại của người đó; trong trường hợp không có địa điểm chỗ ở cụ thể thì nơi ở hiện tại được xác định là đơn vị hành chính cấp xã nơi người đó đang thực tế sinh sống. Người không có nơi thường trú, nơi tạm trú có nghĩa vụ khai báo thông tin về cư trú với cơ quan đăng ký cư trú tại nơi ở hiện tại.
Để đảm bảo quyền được hướng dẫn, hỗ trợ trong thủ tục hành chính của công dân, cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm hướng dẫn việc khai báo thông tin về cư trú theo các trường thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Trường hợp 1: Trường hợp người không có nơi thường trú, nơi tạm trú chưa có thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tiếp nhận thông tin khai báo, cơ quan đăng ký cư trú tiến hành kiểm tra, xác minh thông tin; trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài thời hạn nhưng không quá 60 ngày.
Trường hợp 2: Trường hợp người không có nơi thường trú, nơi tạm trú đã có thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú thì trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận thông tin khai báo, cơ quan đăng ký cư trú tiến hành kiểm tra, xác minh thông tin cho họ. Sau khi kiểm tra, xác minh, cơ quan đăng ký cư trú cập nhật thông tin của công dân về nơi ở hiện tại và các thông tin khác vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú và
Trường hợp có thay đổi thông tin về cư trú thì công dân phải khai báo lại với cơ quan đăng ký cư trú để rà soát, điều chỉnh thông tin của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú; khi đủ điều kiện thì phải làm thủ tục đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú.
Như vậy, có thể thấy rằng, mặc dù được quy định cụ thể đối với từng trường hợp và đối với các cá nhân nhất định, nhưng suy cho cùng, mọi hoạt động xác định nơi cư trú của cá nhân đều dựa trên cơ sở xác định nơi thường trú và tạm trú của chủ thể khác có mối liên hệ với họ.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến bài viết:
Bộ luật dân sự năm 2015
Luật cư trú năm 2006
Luật cư trú năm 2020 (Có hiệu lực vào ngày 1/7/2021)