Hiện nay, theo thống kê thì án ly hôn tăng nhanh so với thời gian trước đây. Gần đây trên báo chí xuất hiện việc ông bà đòi 1 tỷ đồng tiền chăm cháu sau khi vợ chồng ly hôn. Vậy Vợ chồng ly hôn, ông bà có được đòi tiền công chăm cháu hay không?
Mục lục bài viết
1. Vợ chồng ly hôn, ông bà có được đòi tiền công chăm cháu?
Câu hỏi: Chào Luật sư, tôi và chồng tôi sau nhiều năm chung sống thì cảm thấy không còn hạnh phúc và không thể duy trì cuộc hôn nhân được nữa. Do đó, chúng tôi đi đến quyết định sẽ ly hôn nhau. Hiện chúng tôi thỏa thuận với nhau về chia tài sản. Nhưng hiện bố mẹ anh ấy đòi tiền công chăm sóc cháu. Tôi không đồng ý, nhưng ông bà vẫn cứ đòi thậm chí chưởi bới tôi. Vậy trường hợp này, ông bà có được đòi tiền chăm sóc chau không ạ? Rất mong Luật sư giải đáp giúp tôi. Tôi xin cảm ơn.
Chào bạn, chúng tôi gửi đến bạn câu trả lời sau:
Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
– Tài sản chung của vợ chồng bao gồm tài sản số tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và những thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
– Quyền sử dụng đất mà vợ và chồng có được sau khi kết hôn cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng hoặc được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
– Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để đảm bảo cho nhu cầu của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
– Nếu trường hợp không có các căn cứ để chứng minh về tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
– Đối với trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu trường hợp mất tích mà không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
– Tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
+ Hoàn cảnh hiện tại của gia đình và của vợ, chồng;
+ Công sức đóng góp bỏ ra của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
+ Bảo vệ được lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
+ Mức lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
– Tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia bằng hiện vật, nếu trường hợp không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
– Tài sản riêng của vợ, chồng sẽ thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Đối với trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì vẫn sẽ được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
– Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành thì khi ly hôn việc phân chia tài sản sẽ được thực hiện theo nguyên tắc nêu. Và có thể thấy rằng việc xuất hiện trường hợp bố mẹ chồng đòi tiền công chăm cháu là không có căn cứ, khi vợ chồng ly hôn mà bố mẹ chồng có yêu cầu như vậy Tòa án sẽ bác bỏ yêu cầu này. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp có thỏa thuận tự nguyện về việc ông bà chăm sóc cháu, các con trả tiền cho ông bà thì ông bà sẽ có quyền đòi lại phần tiền này theo thỏa thuận các bên đã xác lập từ trước.
2. Cha mẹ ly hôn, con có được do ông bà nuôi dưỡng không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 104 về quyền, nghĩa vụ của ông bà nội, ông bà ngoại với cháu như sau:
Ông bà nội và ông bà ngoại có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục cháu, sống mẫu mực và nêu gương tốt cho con cháu; đối với trường hợp cháu chưa thành niên, cháu đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 105 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại vẫn có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu.
Căn cứ theo quy định này, thì đối với cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có anh, chị, em là người nuôi dưỡng thì ông bà nội, ông bà ngoại vẫn có nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Ngoài ra, căn cứ tại khoản 2 Điều 87 Luật Hôn nhân và Gia đình thì việc trông nom, chăm sóc con sẽ được giao cho người giám hộ mà không phải cha mẹ trong các trường hợp sau đây:
– Cha, mẹ đều đã bị hạn chế quyền với con chưa thành niên.
– Một bên cha, mẹ tuy không bị hạn chế nhưng không còn đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc, thực hiện quyền, nghĩa vụ với con.
– Một bên cha, mẹ hiện bị hạn chế quyền với con chưa thành niên và một bên còn lại chưa xác định được cha, mẹ.
Khi đó, xét theo thứ tự thì người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại Điều 52 Bộ luật Dân sự gồm:
– Anh ruột, chị ruột là anh, chị cả. Nếu trường hợp hai người này không đủ điều kiện thì anh, chị ruột tiếp theo là người giám hộ.
– Nếu trường hợp không có anh, chị ruột thì người giám hộ đương nhiên là ông bà nội, ông bà ngoại.
Như vậy, dựa theo căn cứ các quy định này, thì ông bà vẫn giành được quyền nuôi cháu khi cha mẹ cháu ly hôn nhưng cần phải đáp ứng thêm một số điều kiện nêu trên.
3. Quyền nuôi con sau ly hôn được quy định như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái sau khi ly hôn:
– Sau khi ly hôn thì cha mẹ vẫn có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc con không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
– Vợ, chồng có thể thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; đối với trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu trường hợp con ở trong độ tuổi từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
– Đối với con dưới 36 tháng tuổi thì con sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.
Như vậy đối với quyền nuôi con sau ly hôn sẽ dựa theo sự thỏa thuận của bố mẹ. Nếu trường hợp bố mẹ không thỏa thuận được thì pháp luật sẽ phân chia theo độ tuổi và khả năng nuôi dưỡng con của bố mẹ.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Luật Hôn nhân và gia đình 2014.