Vai trò của án lệ trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO là một trong những nội dung quan trọng được bạn đọc quan tâm khá nhiều trong thời gian gần đây. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc nắm rõ câu trả lời cho câu hỏi trên. Cùng tham khảo nhé.
Mục lục bài viết
1. Vai trò của án lệ trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO:
Học thuyết về án lệ dựa trên nguyên tắc quyết định trong hệ thống pháp luật Anh-Mỹ. Án lệ là những nguyên tắc pháp lý được rút gọn trong các vụ án tại
Trong khuôn khổ WTO, án lệ là phần giải thích các thuật ngữ pháp luật, các quy định hoặc nguyên tắc pháp lý do Hội đồng Thẩm định và Cơ quan Phúc thẩm đưa ra trong các báo cáo của mình. Các thành viên của WTO bao gồm tất cả các quốc gia theo cả hệ thống luật thành văn và hệ thống thông luật. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là liệu nguyên tắc stare decisis có được áp dụng trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hay không.
2. Cơ sở pháp lý cho việc áp dụng án lệ trong Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO:
Tất cả các thành viên trong khuôn khổ WTO đều có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, và ngược lại, Ban hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm có quyền bắt buộc miễn là các cơ quan này giải quyết tranh chấp giữa các thành viên theo quy định và thủ tục của pháp luật WTO. “Thoả thuận về các quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp” (gọi tắt là DSU ) của WTO đặt ra các quy định nghiêm ngặt về một vấn đề được xét xử tại DSB.
Giai đoạn đầu tiên trong thủ tục giải quyết tranh chấp được WTO chấp nhận là giai đoạn tham vấn. Nếu các bên tham vấn thất bại, một trong hai bên có thể yêu cầu DSB thành lập Ban hội thẩm. Sau khi được thành lập, ban hội thẩm này sẽ xem xét và kiểm tra các Hiệp hội liên quan đến các bên được viện dẫn, vấn đề được nêu lên DSB trong tài liệu. Ban Hội thẩm, sau khi tiến hành trưng cầu dân ý với các bên tranh chấp và tham khảo ý kiến các chuyên gia, sẽ đưa ra báo cáo cuối cùng và đệ trình lên DSB. Sau khi báo cáo thông tin được ban hành, DSB sẽ là người đưa ra quyết định và có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Trong trường hợp sáp nhập, một trong hai bên không đồng ý với báo cáo của Hội đồng Thẩm định có thể khiếu nại một lần tới DSB trước khi DSB
Theo thủ tục giải quyết tranh chấp nêu trên, có thể thấy, Ban Hội thẩm và Cơ quan phúc thẩm không có thẩm quyền quyết định công việc mà chỉ có trách nhiệm đưa ra những nhận xét, ý kiến của mình trong báo cáo đệ trình lên DSB. DSB có thẩm quyền quyết định có thông báo báo cáo hay không. Nếu các báo cáo này được thông báo, việc giải thích các điều khoản, quy định và quyết định thuật toán được đưa ra trong báo cáo sẽ trở thành ràng buộc để các bên tranh chấp chấp. Không có bên nào có quyền kháng cáo báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm và phán quyết của DSB.
Hiệp định WTO được xây dựng thông qua đàm phán đa phương. Tuy nhiên, trong các Hiệp định có nhiều điều khoản chung chung, chưa rõ ràng. Đôi khi một số thuật ngữ có thể được các thành viên hiểu theo nhiều nghĩa có lợi cho họ, điều này gây khó khăn cho DSB trong quá trình giải quyết tranh chấp. Vì vậy, trong các tình huống công việc, việc giải thích các thuật ngữ này là một khâu quan trọng trong việc giải quyết công việc. Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng có thẩm quyền chuyên môn để thông qua các giải pháp phù hợp của Hiệp định này và của Hiệp định Thương mại Đa phương. Các Thành viên có quyền giám sát việc giải quyết các quy định trong báo cáo cuối cùng của Hội đồng thẩm định và Cơ quan phúc thẩm, trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền đề xuất các giải pháp khác nhau về cùng một quy định. Nếu các cơ quan có thẩm quyền đưa ra các cách giải thích khác nhau, các cơ quan này phải đưa ra nguyên nhân rõ ràng, minh bạch.
Quy định tại Khoản 6, Điều 17 của DSU ngầm thừa nhận Hội đồng thẩm định có thẩm quyền giải quyết theo pháp luật khi giới hạn nội dung kháng cáo đối với các bên tranh chấp. Nếu Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc thẩm giải quyết các quy định liên quan của Hiệp định WTO thì các giải pháp phù hợp của họ sẽ chỉ buộc các bên tranh chấp phải được chấp nhận. Mặc dù Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng có quyền thông qua một giải pháp giải quyết các Hiệp định WTO, nhưng giải pháp đó sẽ bị hạn chế và có hiệu lực đối với tất cả các thành viên của WTO. Tóm lại, việc giải thích các điều khoản, quy định trong Hiệp định WTO đã trở thành một phần quan trọng trong các quy định của WTO. Nhưng những quy định này chỉ buộc các bên tranh chấp phải chấp nhận và trong mọi trường hợp không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với DSB trong công việc sau này.
3. Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO:
Cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng dựa trên 4 nguyên tắc: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên tranh chấp, phù hợp với mục tiêu đảm bảo quyền và nghĩa vụ và phù hợp với các hiệp định thương mại có liên quan trên cơ sở gắn kết các hành vi vi phạm tập quán quốc tế trong việc giải thích điều ước quốc tế.
Ngoài ra, WTO cũng sẽ tiếp tục áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp của GATT 1947 như: tái lập sự cân bằng giữa quyền và nghĩa vụ để tích cực giải quyết tranh chấp; cấm đơn phương áp dụng các biện pháp trả đũa khi chưa được phép của WTO. Nguyên tắc cấm các biện pháp trừng phạt đơn phương là rất quan trọng đối với sự tồn tại của hệ thống thương mại toàn cầu.
Tuy nhiên, nguyên tắc này không bao gồm chức năng xác định, cấm các nước thành viên đơn phương xác định hành vi của các nước thành viên khác có vi phạm Hiệp định WTO hay không. Lợi dụng sự rõ ràng này, một số nước thành viên phát triển như Mỹ, EU tiếp tục đơn phương áp dụng luật riêng của mình như điều khoản Super 301 trong
Ngoài ra, các thành viên WTO vẫn có thể sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác trong Công pháp quốc tế như trọng tài liên bang (trọng tài giữa các quốc gia), trung gian (mediation) và hoà giải (conciliation). Điều 25 Hiệp định DSU quy định các nước thành viên có thể giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài đối với những tranh chấp nếu các nước này thỏa thuận nhất trí sử dụng cơ chế này và chấp nhận quyết định quan trọng của trọng tài.
Ngoài cơ chế giải quyết tranh chấp chung, một số hiệp định thương mại đa phương của WTO còn quy định cơ chế giải quyết tranh chấp đặc biệt. Ví dụ như Hiệp định về trợ cấp có quy định thủ tục riêng để giải quyết các tranh chấp liên quan đến dệt may trước Cơ quan giám sát dệt may. Trong trường hợp mà các quy định của cơ chế giải quyết tranh chấp đặc biệt khác với những quy định của cơ chế giải quyết tranh chấp chung thì quy định của cơ chế đặc biệt sẽ được ưu tiên áp dụng.