Tai nạn giao thông xảy ra là điều mà không ai mong muốn, nhiều vụ tai nạn giao thông kéo theo thiệt hại tới tính mạng và sức khỏe của người bị nạn. Trong trường hợp, vô ý gây tai nạn giao thông thì có phải bồi thường hay không?
Mục lục bài viết
1. Vô ý gây tai nạn giao thông có phải bồi thường không?
Hiện nay, pháp luật đã có quy định cụ thể về vấn đề bồi thường thiệt hại, chế định bồi thường áp dụng trong nhiều quan hệ khác, trong đó có hiện tượng tai nạn giao thông. Căn cứ theo quy định Điều 590 của Dân sự năm 2015 có quy định về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm. Theo đó, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm sẽ bao gồm những thiệt hại cơ bản:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa và bồi dưỡng người bị thiệt hại, chi phí phục hồi sức khỏe và phục hồi chức năng bị mất hoặc những chức năng bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc thu nhập bị giảm suốt của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được cụ thể thì sẽ được áp dụng theo mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại trên thị trường lao động;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị theo quy định của pháp luật, nếu như người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì chi phí bồi thường thiệt hại còn bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
– Thiệt hại khác do pháp luật quy định.
Ngoài ra, pháp luật còn quy định về, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại những khoản tiền nêu trên và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó phải gánh chịu, mức bồi thường tổn thất về tinh thần sẽ do các bên thỏa thuận phù hợp với thực tế và thu nhập của các bên, tuy nhiên nếu các bên không thỏa thuận được thì mức bồi thường tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm là không quá 50 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định hiện nay, mức lương cơ sở hiện nay được xác định là 1.800.000 đồng.
Theo như phân tích ở trên thì có thể nói, trong trường hợp tham gia giao thông, gây ra tai nạn cho người khác, dù là lỗi cố ý hay vô ý gây tai nạn giao thông thì vẫn phải bồi thường thiệt hại cho người bị tai nạn. Đây được xem là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng khi có hành vi gây tai nạn cho người khác, mà không xem xét đến yếu tố lỗi, do lỗi không phải là một trong những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Và theo như phân tích, mức độ bồi thường thiệt hại sẽ do các bên tự thỏa thuận khi vụ việc tai nạn giao thông xảy ra. Nếu như các bên không thỏa thuận được thì sẽ giải quyết theo nguyên tắc, quy định tại Điều 585 của Bộ luật dân sự năm 2015, được hướng dẫn cụ thể tại Điều 3 và Điều 7 của Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2. Quy định về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vô ý gây tai nạn giao thông:
Căn cứ theo quy định tại Điều 584 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về những căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, có thể kể đến như sau:
Người nào có hành vi xâm phạm đến tính mạng hoặc sức khoẻ, xâm phạm danh dự mất uy tín, nhân phẩm và tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây ra thiệt hại trên thực tế thì phải tiến hành hoạt động bồi thường theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác;
– Người gây ra thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp, thiệt hại đó xảy ra xuất phát từ sự kiện bất khả kháng nằm ngoài ý chí của con người hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác;
– Trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại thì những đối tượng được xác định là chủ sở hữu và người chiếm hữu tài sản hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật, trường hợp thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại.
Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại Điều 2 của Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có hướng dẫn cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi hội tụ đầy đủ các căn cứ sau đây:
Thứ nhất, có hành vi xâm phạm đến tính mạng hoặc sức khỏe, xâm phạm đến danh dự và nhân phẩm, xâm phạm đến uy tín và tài sản, quyền lợi hợp pháp của người khác.
Thứ hai, có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Thiệt hại đó có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại về tinh thần.
Thứ ba, có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi xâm phạm. Hay nói cách khác, thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi xâm phạm và ngược lại, hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại và hậu quả trên thực tế.
Như vậy có thể nói, Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn khác có liên quan không quy định yêu tố lỗi là một trong những yếu tố bắt buộc để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, vì vậy ngay cả khi không có lỗi thì vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Theo đó, người có hành vi vô ý gây tai nạn giao thông chỉ còn phải mãn những yếu tố nêu trên thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, dù đó là lỗi vô ý hay cố ý.
Tóm lại, dù là lỗi vô ý gây thiệt hại cho người đi đường khi tham gia giao thông nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị nạn. Vấn đề bồi thường thiệt hại sẽ dựa trên thoả thuận theo như phân tích ở trên.
3. Nguyên tắc bồi thường do vô ý gây tai nạn giao thông:
Căn cứ theo quy định tại Điều 585 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và bồi thường thiệt hại do vô ý gây tai nạn giao thông nói riêng, bao gồm những nguyên tắc sau:
– Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, tránh gây ra hậu quả nghiêm trọng cho bên bị thiệt hại. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận và thương lượng với nhau về mức độ bồi thường, thỏa thuận về hình thức bồi thường, có thể bồi thường bằng tiền hoặc bồi thường bằng hiện vật hoặc thậm chí là thực hiện một công việc nhất định, có thể thỏa thuận về phương thức bồi thường, bồi thường một lần hoặc bồi thường nhiều lần theo khả năng kinh tế của các bên, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể yêu cầu giảm mức bồi thường nếu như xét thấy họ không có lỗi hoặc có lỗi vô ý, thiệt hại xảy ra trên thực tế quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây ra thiệt hại;
– Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì các bên, trong đó bao gồm bên bị thiệt hại hoặc bên gây ra thiệt hại có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thay đổi mức bồi thương sao cho phù hợp;
– Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây ra thiệt hại đó thì sẽ không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra;
– Bên có quyền lợi bị xâm phạm không được bồi thường nếu như phép thử thiệt hại đó xảy ra do hành vi không áp dụng các biện pháp cần thiết và hợp lý để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại cho chính bản thân mình.
Như vậy, bồi thường thiệt hại do hành vi vô ý gây tai nạn giao thông cũng cần phải tuân thủ các nguyên tắc bồi thường nêu trên.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Nghị quyết 02/2022/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.