Tổng hợp các dàn ý Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài hay nhất, phân tích chi tiết các luận điểm, luận cứ đầy đủ, rõ ràng và chính xác nhất về đoạn trích cũng như phân tích nhân vật chính một cách logic, hiệu quả. Mời bạn đọc cùng theo dõi!
Mục lục bài viết
1. Tổng quan về tác giả Nguyễn Huy Tưởng:
Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài là một đoạn trích thuộc chương V của vở kịch lịch sử Vũ Như Tô của tác giả Nguyễn Huy Tưởng.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho có tinh thần yêu nước ở làng Dục Tú, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Dục Tú, huyện đông Anh, Hà Nội).
Năm 1930, ông tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng, đến năm 1935, ông làm thư ký nhà Đoan (Thuế quan) ở Hải Phòng, sau đó quay về Hà Nội. Năm 1938 ông tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ và phong trào hướng đạo sinh ở Hải Phòng. Năm 1943 ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Năm 1945, ông tham gia ban biên tập tạp chí Tiên Phong của Văn hóa cứu quốc và đi dự Đại hội quốc dân ở Tân Trào, ông còn là đại biểu văn hóa cứu quốc, giúp biên tập các tờ báo Cờ giải phóng, Tiên Phong. Tham gia tích cực trong văn hóa cứu quốc, là lực lượng tham gia chiến dịch biên giới, đến năm 1954 ông làm Uỷ viên ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Huy Tưởng luôn hoạt động sôi nổi, cống hiến hết mình vì nghệ thuật nước nhà cũng như là một phần hỗ trợ kháng chiến bảo vệ tổ quốc, xứng đáng là người mà chúng ta tôn trọng.
2. Nội dung tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài:
Tác phẩm Vũ Như Tô là vở kịch lịch sử viết về một sự kiện xảy ra ở Thăng Long khoảng năm 1516 – 1517, dưới triều Lê Tương Dực bao gồm 5 hồi. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” thuộc hồi V, hồi cuối cùng của tác phẩm này.
Vũ Như Tô – một nhà kiến trúc giỏi, một nghệ sĩ chí lớn chính là nhân vật chính trong đoạn trích này. Ông là một người có tính tình cương trực, trọng nghĩa kinh tài, bị Lê Tương Dực – một hôn quân bạo chúa sai xây dựng Cửu Trùng Đài làm nơi ăn chơi với đám cung nữ. Vũ Như Tô đã từ chối công việc này dù có bị đe dọa đến tính mạng, xong với lời khuyên của Đam Thiền – cung nữ tài sắc nhưng bị ruồng bỏ, ông đã nhận lời và cố gắng hết sức để xây dựng Cửu Trùng Đài vì muốn dùng tài năng của mình ra phục vụ đất nước. Tuy nhiên, việc xây dựng Cửu Trùng Đài chỉ làm dân chúng thêm cùng khổ và phẫn uất. Nó như một động lực để toàn dân đứng dậy đạp đổ ách thống trị thối nát, Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài cũng bị thiêu rụi.
3. Một số dàn ý hay về Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài hay nhất:
3.1. Dàn ý 1: Phân tích đoạn trích:
1. Mở bài
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, dẫn dắt vào đoạn trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”
2. Thân bài
Luận điểm 1: Những mâu thuẫn xung đột cơ bản trong vở kịch
– Mâu thuẫn1: nhân dân lao động khốn khổ với bọn hôn quân bạo chúa và phe cánh của chúng sống xa hoa trụy lạc. Mâu thuẫn này thực tế đã có từ trước đó, xong việc Lê Dương Trực bắt Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài như một giọt nước tràn ly, biến mâu thuẫn trở lên gay gắt hơn.
– Mâu thuẫn 2: Vũ Như Tô là một người nghệ sĩ có tâm huyết, hoài bão, muốn đem lại cái đẹp cho muôn đời nhưng lại mượn uy quyền, tiền bạc của vua để thực hiện hoài bão này. Mục đích mong muốn mang lại cái đẹp cho đời, mang lại nghệ thuật cao siêu, thuần túy muôn đời nhưng con đường thực hiện sai lầm, không chú ý đến lợi ích thiết thực của nhân dân. Là đúng ý tưởng nhưng sai mục đích, sai thời điểm. Điều này đã đẩy Vũ Như Tô đến bi kịch không lối thoát.
Luận điểm 2: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô.
Luận cứ 1: Là một kiến trúc sư thiên tài khao khát sáng tạo cái đẹp.
– Vũ Như Tô là người “ngàn năm chưa dễ có một”
– Tài năng của ông được thể hiện qua các từ miêu tả: “chỉ vẩy bút là chim hoa đã hiện lên”, “sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”
Luận cứ 2: Là một nghệ sĩ có nhân cách, hoài bão lớn, có lí tưởng nghệ thuật cao cả.
– Dù bị Lê Tương Dực dọa giết, ông vẫn kiên quyết từ chối việc xây dựng Cửu Trùng Đài.
– Sau khi được khuyên nhủ, ông mong muốn, khao khát cống hiến tài năng cho đất nước nên đã đồng ý và cố gắng hết tâm huyết xây dựng một lâu đài vĩ đại cho đất nước.
Luận cứ 3: Là người không hám lợi.
– Ông được vua ban thưởng đã đem chia hết cho thợ
Tuy nhiên, lý tưởng, mơ ước, tài năng của ông đã thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử xã hội, đời sống nhân dân và hoàn cảnh đất nước. Tài năng không được thể hiện đúng lúc, đúng chỗ, đó là bi kịch của ông. Sự thức tỉnh trong ông chỉ diễn ra vào giai đoạn những giây phút cuối cùng khi ông và Đan Thiềm bị bắt và Cửu Trùng Đài bị phá.
Luận điểm 3: Phân tích nhân vật Đan Thiềm
Đan Thiềm là nhân vật sống chết hết mình vì cái đẹp, cái tài. Là một người tài năng, xinh đẹp, là tri kỷ duy nhất của Vũ Như Tô trong triều, bà luôn động viên, khích lệ và giúp đỡ Vũ Như Tô trong quá trình xây dựng đài. Bà là một con người tỉnh táo, khi nhận thấy đài không thể thành, bà đã tìm cách bảo vệ an toàn tính mạng cho Vũ Như Tô, khuyên ông bỏ trốn. Đan Thiềm cũng sẵn sàng chết vì Vũ Như Tô, và đau đớn khi không thể cứu được người tài.
Luận điểm 4: Giải quyết mâu thuẫn, xung đột.
– Đối với mâu thuẫn 1: Giải quyết dứt khoát mâu thuẫn bằng cảnh nhân dân, quân nổi loạn đốt chát Cửu Trùng Đài, tiêu diệt vua chúa, Vũ Như Tô,… những người tạo lên khốn khổ của nhân dân.
– Mâu thuẫn 2: Chưa được giải quyết dứt điểm. Vũ Như Tô là người có công hay kẻ có tội, chúng ta cũng không được trả lời, tác giả chỉ mới nêu vấn đề.
Luận điểm 5: Nghệ thuật và ý nghĩa
– Nghệ thuật: Sử dụng ngôn ngữ tập trung phát triển cao, hành động dồn dập kịch tính, nhịp điều lời thoại nhanh, có sự tổng kết cao. Tính cách, tâm trạng nhân vật bộc lộ rõ nét, các lớp kịch chuyển tự nhiên, linh hoạt, liền mạch.
– Ý nghĩa: Thương cảm cho người nghệ sĩ có tài, có tâm, có đam mê, khao khát và nhiệt huyết nhưng lại rời xa thực tế nên phải trả giá bằng cả sinh mệnh và công trình nghệ thuật của mình. Từ đây có thể khẳng định rằng, cái đẹp không thể tách rời cái thiện, người nghệ sĩ có hoài bão, vĩ đại không được đặt nghệ thuật rời xa cuộc sống của nhân dân, của xã hội. Muốn đem lại những tác phẩm nghệ thuật đích thực, xã hội phải tạo điều kiện, vun đắp nhân tài, và tác phẩm nghệ thuật đó cũng phải được sử dụng với mục đích vì lợi ích cộng đồng.
3. Kết bài
– Khái quát lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
– Đoạn trích đặt ra vấn đề có ý nghĩa muôn thưở về cái đẹp, và mối quan hệ giữa nghệ sĩ và nhân dân, đồng thời tác giả bày tỏ niềm cảm thông, trân trọng đối với nghệ sĩ tài năng, giàu khát vọng nhưng lại rơi vào bi kịch.
3.2. Dàn ý 2: Phân tích nhân vật Vũ Như Tô:
1. Mở bài:
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Dẫn dắt giới thiệu về nhân vật Vũ Như Tô
2. Thân bài:
Luận điểm 1: Giải thích nhân vật bi kịch là gì.
– Bi kịch là loại kịch thể hiện mối xung đột không điều hoà được giữa cao cả và thấp hèn, thiện và ác, lí tưởng và thực tại,… dẫn đến một kết cục là cái chết bi thảm với cảm xúc đau thương mãnh liệt cho độc giả.
– Nhân vật bi kịch là nhân vật bị mắc vào giữa các mâu thuẫn, có nghịch cảnh oan trái, éo le dẫn đến một kết cục đau thương.
Luận điểm 2: Tấm bi kịch của Vũ Như Tô
Luận cứ 1: Biểu hiện của tấm bi kịch
– Vũ Như Tô có tài, có hoài bão, đam mê và sáng tạo cái đẹp xây dựng Cửu Trùng Đài vì mong muốn cống hiến công trình nghệ thuật đỉnh cao cho đất nước.
– Thực tế phũ phàng với Vũ Như Tô với sự ngang trái của xã hội dẫn đến mộng vỡ thê thảm: Cửu Trùng đài bị đốt, Vũ Như Tô và Đan Thiềm bị đưa ra pháp trường chịu chết.
Luận cứ 2: Tâm trạng của Vũ Như Tô về sự tan vỡ mộng trong đoạn trích:
– Phân tích sự việc Vũ Như Tô vẫn không tỉnh, vẫn say sưa cới giấc mộng trong thời khắc biến loạn dữ dội.
– Phân tích thời điểm vỡ mộng khi chứng kiến Cửu Trùng Đài bị đốt phá, Vũ Như Tô đau đớn kinh hoàng.
Luận điểm 3: Nguyên nhân của tấm bi kịch
Mâu thuẫn giữa khát vọng cao cả của người nghệ sĩnh, khao khát cống hiến tài năng mang lại tác phẩm nghệ thuật cho đất nước. Nhưng ông lại đi trên một con đường sai lầm khi dùng quyền lực của bạo chúa trong thời điểm không thích hợp, không vì lợi ích của nhân dân để thực hiện khát vọng.
Luận điểm 4: Ý nghĩa của tấm bi kịch của Vũ Như Tô:
– Thương cảm người nghệ sĩ có tài, có tâm, đam mê khao khát nghệ thuật, sáng tạo nhưng xa rời thực tế mà phải trả giá bằng sinh mệnh và cả công trình nghệ thuật của mình.
– Cái đẹp không thể tách rời thực tế, phải đảm bảo sử dụng các công trình nghệ thuật có mục đích vì quyền lợi của cộng đồng, của xã hội mà không chỉ vì lợi ích của một cá thể hay nhóm nào khác.
– Xã hội cũng phải biết nhìn nhận, bồi đắp nhân tài, biết sử dụng nhân tài đúng lúc, đúng chỗ để đem lại lợi ích cho cả cộng đồng.
3. Kết bài:
Qua bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô, Nguyễn Huy Tưởng gợi những suy tư sâu sắc về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ với hoạt động sáng tạo nghệ thuật và hiện thực đời sống của nhân dân.