Trong số các học thuyết về pháp quyền thì học thuyết về pháp quyền tự nhiên có thể nói là một trong những học thuyết được hình thành sớm nhất, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội. Vậy thuyết pháp quyền tự nhiên là gì? Các học thuyết pháp quyền tự nhiên ra đời như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Thuyết pháp quyền tự nhiên là gì?
Thuyết pháp quyền tự nhiên là học thuyết cho rằng có một thứ pháp luật tự nhiên điều chỉnh quan hệ giữa người và người khi con người tồn tại trong trạng thái tự nhiên.
Từ năm 500 trước Công nguyên, nhà triết học Heraclitus đã cho rằng: Tất cả các luật của con người đều được nuôi dưỡng bởi luật của thánh thần. Luật của thánh thần thống trị trong phạm vi nó muốn, đủ cho tất cả, trường tồn và trên tất cả. Nghĩa là ngoài vô vàn luật của con người, có một luật cao hơn, phổ biến và độc lập với lý trí của con người. Luật này là vĩnh hằng và là cơ sở, là chuẩn mực cao nhất để điều chỉnh luật của con người. Nhận xét mang tính ẩn dụ này chứa đựng những hạt giống đầu tiên của pháp quyền tự nhiên: Luật của con người không đơn thuần là sản phẩm của quy ước hay các quan hệ quyền lực vì luật chỉ đúng và hợp lý khi hài hòa với tự nhiên.
Ciceron là người đầu tiên trình bày rõ ràng về pháp quyền tự nhiên. Ông cho rằng: “Có một luật thực sự trong thực tế – gọi là lý trí đúng đắn – phù hợp với tự nhiên, phổ biến trong tất cả các sinh vật, không thay đổi và không diệt vong. Làm cho luật này mất hiệu lực bằng cách lập pháp, về mặt đạo đức là không đúng hay hạn chế ảnh hưởng của nó là không thể chấp nhận được và xóa bỏ nó hoàn toàn là không thể”. Điều đó có nghĩa là con người có các quyền tự nhiên không thể chuyển nhượng được. Người sở hữu quyền này không thể từ bỏ nó, dù tự nguyện hay không tự nguyện và không một người, một nhóm người hoặc một thể chế nào có thể tước đoạt những quyền tự nhiên đó.
2. Học thuyết pháp quyền tự nhiên truyền thống:
Quan niệm về pháp quyền tự nhiên không phải là ý tưởng đơn nhất mà là một chuỗi các quan điểm với cách tiếp cận khác nhau. Theo đó, có trường phái chính là trường phái truyền thống và trường phái hiện đại:
– Trường phái truyền thống: Trường phái truyền thống bắt đầu từ các nhà tư tưởng cổ đại như Plato, Aristotle và Ciceron cũng như các nhà lý luận Thiên Chúa giáo như Saint Paul và đặc biệt là Thomas Aquinas. Trường phái này cho rằng quyền công dân là gốc của mọi quyền khác. Quyền tự nhiên chỉ là quyền phái sinh của quyền công dân vì chỉ khi là công dân, con người mới được hưởng các quyền đó. Những quyền đó không tồn tại trong trạng thái dã man, nơi con người không được bảo vệ và vì không được bảo vệ nên các quyền đó không tồn tại. Vì vậy, con người cần luôn ý thức được mình là công dân, gắn với cộng đồng. Nhờ có mối liên hệ với cộng đồng, con người trở thành công dân và có các quyền.
Pháp quyền tự nhiên truyền thống dựa trên ba nguyên tắc:
+ Nguyên tắc quyền lực công cộng: Luật cần bao gồm và phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Luật chỉ mang tính bắt buộc khi phù hợp với ý chí của nhân dân. Nhà nước chỉ chiếm được ưu thế khi dựa vào ý chí của nhân dân và nhờ đó mà trở thành pháp quyền.
+ Nguyên tắc lãnh đạo: Con người sống trong xã hội gồm nhiều người khác là một điều tự nhiên và cần có những phương tiện để quản lý các nhóm. Ở nơi nào có nhiều người và mỗi người đều chăm chút cho lợi ích riêng thì đám đông dân chúng có thể bị phá vỡ và phân tán trừ khi có một chủ thể quan tâm duy trì cái thuộc lợi ích chung của tất cả các thành viên.
+ Nguyên tắc phụ thuộc: Nhà nước nên để các tổ chức tự hoạt động và hỗ trợ các cá nhân và các nhóm hành động vì các mục tiêu và cam kết họ lựa chọn. Các tổ chức xã hội có các chức năng riêng nên hoạt động của chúng độc lập và không bị can thiệp trong chừng mực chúng không phá vỡ các mục tiêu chung. Giáo Hoàng Pius XI đã bảo vệ nguyên tắc này: “Thật sai lầm khi lấy đi của các cá nhân và trao cho một cộng đồng cái mà các cá nhân có thể làm… Trong bản chất sâu xa của nó, mục tiêu đúng đắn của tất cả các hoạt động xã hội là giúp đỡ các thành viên trong cơ thể xã hội chứ không bao giờ phá hủy hay bỏ rơi họ”.
3. Trường phái pháp quyền tự nhiên hiện đại:
Trường phái hiện đại cho rằng các quyền tự nhiên (quyền con người) là gốc của mọi quyền. Con người tham gia vào cộng đồng để bảo vệ các quyền đó. Cách tiếp cận này dẫn tới chủ nghĩa tự do với ảnh hưởng của nhiều nhà tư tưởng như Hugo Grotius, Samuel Pufendoft và nhiều nhà triết học khác, trong đó, người có ảnh hưởng lớn nhất là John Locke.
Hugo Grotius đã hợp lý hóa pháp quyền tự nhiên căn cứ vào những nguyên tắc về quyền của lý trí, khế ước và trở thành người sáng lập ra thuyết pháp quyền tự nhiên hiện đại. Ông đã tạo ra khoảng không gian rất rộng cho hành động của các cá nhân mà nhà nước không được can thiệp. Sự vận hành của khoảng không gian đó là do sự chủ động và sáng kiến của người dân và hiệu quả phụ thuộc vào tính tự giác của những người tham gia.
Xpinoda sau đó cho rằng, xã hội được tạo lập bằng cách thỏa thuận về việc chuyển giao sức mạnh và quyền của mỗi người sang xã hội nói chung. Nhà nước ra đời và chức năng đầu tiên của nhà nước là bảo vệ các quyền tự do có hạn chế của con người. Nhà nước buộc con người phải sống theo các quy luật của lý trí. Ngoài chức năng đó ra, nhà nước nên hạn chế can thiệp vào các hoạt động khác của con người.
Từ những nội dung trên, có thể thấy rằng cả hai trường phái về thuyết pháp quyền tự nhiên đều cho rằng nhà nước khi được ủy quyền phải bảo đảm cho những người ủy quyền cả các quyền con người và quyền công dân. Trong đó, quyền con người là quyền tự nhiên vốn có của con người và không thể bị tước đoạt bởi bất kỳ chủ thể nào. Còn quyền công dân được xem xét trong mối quan hệ với nhà nước, nghĩa là chỉ những ai là công dân mới có các quyền đó và quyền đó không dành cho người không phải là công dân, bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, là công dân của một quốc gia khác hay đang sinh sống ở một quốc gia khác. Quyền công dân có thể khác nhau trong các quốc gia khác nhau. Quyền này không chỉ bao gồm sự áp đặt của những người ủy quyền đối với nhà nước mà đó là một khối các lợi ích và cả những gánh nặng mà những người lập ra cộng đồng chính trị đó chia sẻ và chấp nhận. Trong khi đó, quyền con người được thừa nhận chung trong mọi quốc gia và cộng đồng.
Tuy xuất phát từ hai cách tiếp cận nhưng cả trường phái truyền thống và hiện đại về pháp quyền tự nhiên đều khẳng định rằng nhà nước phải phụ thuộc vào các chuẩn mực dựa trên tự nhiên và thừa nhận tồn tại một khoảng không gian ngoài nhà nước, nơi người dân có thể tự do hoạt động để phục vụ những lợi ích và nhu cầu của mình. Tuy nhiên, pháp quyền tự nhiên nói chung ngoài việc quan tâm đến sự phân biệt giữa nhà nước và lĩnh vực công cộng còn nhấn mạnh trách nhiệm đi đôi với các quyền từ cả hai phía nhà nước và xã hội công dân. Nói cách khác, pháp quyền tự nhiên coi nghĩa vụ qua lại giữa những con người là vô điều kiện đồng thời nhấn mạnh vào phẩm hạnh của con người và nghĩa vụ của người công dân.
Những tư tưởng về học thuyết pháp quyền tự nhiên đã phản bác lại và đập tan thuyết thần quyền đã tồn tại nhiều năm suốt thời Trung cổ với quan niềm thần tháng về ngôi vua, về quyền lực vô song, không tranh cãi của nhà nước và nhà thờ. Cùng với nhiều tư tưởng tiến bộ đương thời, tư tưởng pháp quyền đã thôi thúc nhân dân làm cách mạng để giành lại tự do, nhân phẩm của họ bị tước mất bấy lâu nay. Bên cạnh đó, vấn đề nhà nước pháp quyền còn có tính cách mạng triệt để, là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều nhà tư tưởng tiến bộ sau này, đồng thời là nên tảng tư tưởng cho việc thiết kế nên các bản hùng văn mang tính tuyên ngôn của nhiều quốc gia. Ngoài ra, vấn đề nhà nước pháp quyền cũng thể hiện tính nhân văn cao cả, đặt niềm tin tuyệt đối vào con người, vào những thể chế, thiết chế do con người thiết lập nên thông qua việc cam kết ký với nhau một “khế ước” khi tham gia vào xã hội chính trị – xã hội dân sự; đặt quyền lực của nhân dân cao hơn quyền lực nhà nước, cho rằng quyền lực của nhà nước là do nhân dân ủy thác, trao quyền.