Chế độ tài sản theo thỏa thuận không còn là điều mới lạ với nhiều nước trên thế giới, ngược lại, nó đã tồn tại từ rất sớm.
Chế độ tài sản theo thỏa thuận không còn là điều mới lạ với nhiều nước trên thế giới, ngược lại, nó đã tồn tại từ rất sớm. Trước đây, người La Mã cổ đại khi kết hôn thường tự lập thỏa thuận trong đó ghi xác định trước quan hệ tài sản giữa họ với nhau trong cuộc sống tương lai, đồng thời cũng nêu rõ những điều kiện thừa kế tài sản khi một bên vợ (chồng) chết. Hiện tượng thể hiện sự độc lập không vụ lợi trong quan hệ tài sản của các bên nam nữ khi lập gia đình. (Theo Dự thảo luật online về Hôn ước – Trần Thị Hương).
Phần lớn các quốc gia phát triển trên thế giới hiện nay đều qui định cả hai chế độ tài sản vợ chồng: theo pháp luật và theo thỏa thuận, tiêu biểu có Hoa kỳ và Pháp. Trong khi đó, một số quốc gia như Bulgari, Hungari, Roumani, Tiệp Khắc, Việt Nam, ngoài ra còn có Argentina và một số bang ở Mehico còn duy trì duy nhất một chế độ tài sản pháp định đối với vợ chồng. Trong khu vực, Trung Quốc trước đây không có qui định chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận, nay đã công nhận chế độ này. Nhật Bản vốn là quốc gia nặng về truyền thống cộng đồng và gia đình cũng đã có qui định về thỏa thuân vợ chồng đối với tài sản.
1. Trung Quốc
Trước khi ban hành Luật hôn nhân 2001, hôn ước không được công nhận ở Trung Quốc. Năm 2001, Luật hôn nhân Trung Quốc bổ sung qui định mới liên quan đến tiền hôn nhân hay hôn ước. Điều 17 của luật này giữ nguyên qui định của luật cũ rằng tất cả thu nhập kiếm được và tài sản của các bên được coi là tài sản chung ngoại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác (điều 19).Cụ thể, điều 19 qui định: “ vợ hoặc chồng có thể, bằng thỏa thuận, ước định tài sản của mỗi bên trước và sau hôn nhân”. Hơn nữa, thỏa thuận này có thể qui định chế độ sở hữu tài sản, hoặc là sở hữu chung toàn bộ, hoặc là sở hữu chung một phần hoặc là sở hữu riêng. Tất cả những thỏa thuận này đều phải được thể hiện bằng văn bản. Nếu thỏa thuận này không rõ ràng hoặc thiếu thì qui định về chế độ sở hữu vợ chồng theo pháp luật được áp dụng.
Từ khi được công nhận, hôn ước ngày nay trở nên rất phổ biến ở những thành phố lớn của Trung Quốc như Thượng Hải, Bắc Kinh, đặc biệt là ở thế hệ trẻ. Chúng được biết đến như một chứng nhận tài sản trước hôn nhân.
2. Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến và bất bình đẳng giới. Hôn nhân một vợ một chồng của Nhật Bản mới được ghi nhận khoảng 100 năm trước vào đầu thời kì Minh Trị, ngay cả đến thời điểm hiện nay Nhật Bản cũng chỉ cho phép phụ nữ được tái giá sau 6 tháng kể từ ngày cuộc hôn nhân trước của họ chấm dứt và người vợ khi kết hôn thì phải mang họ chồng.
Về hình thức, không giống như pháp luật các quốc gia khác, Nhật Bản có riêng một văn bản pháp luật điều chỉnh về hình thức của hôn ước và vấn đề đăng kí hôn ước (Mặc dù tên tiếng anh của văn bản này được dịch theo các cách khác nhau: “Family Registration Act” hay “Matrimonial property agreement Registration Act” nhưng toàn bộ nội dung của nó chỉ nói về việc đăng kí hôn ước và hình thức của hôn ước).Về nội dung, nội dung của của hôn ước được qui định trong bộ luật dân sự (Civil Code) Điều 755 Bộ luật dân sự Nhật Bản ghi nhận quyền được lập hôn ước của các cặp vợ chồng: các quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng sẽ được tuân theo các qui định dưới đây nếu như vợ chồng không kí vào một hợp đồng qui định trước về tài sản của họ trước khi đăng kí kết hôn.
3. Hoa Kỳ
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
Có thể nói rằng không có ở một quốc gia nào mà vấn đề lập hôn ước lại trở nên phổ biến như ở Hoa Kì. Ở Hoa Kì, những người có mức sống cao hoặc những người thừa kế giàu có thường gặp rất nhiều phiền toái với vợ/chồng cũ của mình cũng như luật sư của cô/anh ta trong suốt thời kì giải quyết việc li hôn. Ngoài hôn ước (prenuptial agreement), Hoa Kì còn cho phép các cặp vợ chồng lập một thỏa thuận tương tự như hôn ước trong thời kì hôn nhân (postnuptial agreement tạm dịch là hậu hôn ước). Trong suốt thế kỉ 18 thì thông luật (common law) không cho phép vợ chồng lập hôn ước bởi vì họ cho rằng khi hai người kết hôn thì họ đã hòa làm một và không thể có giao dịch khi chỉ có một chủ thể, một lí do nữa là một người phụ nữ đã có chồng thì họ không được phép tham gia kí kết các hợp đồng trừ khi đã li thân. Đến khoảng giữa thế kỉ 19 thì một số án lệ ở Hoa Kì đã cho phép sự tồn tại của hôn ước, đến tháng 7 năm 1983 một đạo luật về hôn ước (Uniform premarital agreement Act gọi tắt là UPAA) đã được ban hành dựa trên kết quả của các án lệ, UPAA được chấp nhận ở đa số các bang của Hoa Kì, một số bang còn lại có những qui định khác hay đặc biệt hơn so với UPAA.
4. Cộng Hòa Pháp
Nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản trong hôn nhân bắt nguồn từ việc thực hiện nguyên tắc tự do ký kết hợp đồng đã được thừa nhận ở Pháp từ thế kỷ XVI, khi mà những quan hệ kinh tế, thương mại phát triển mạnh. Từ thời kỳ đó, luật pháp và tập quán đã thừa nhận những sự thỏa thuận của vợ chồng về chế độ tài sản phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của họ, như là một quyền tự do cá nhân. Bộ luật dân sự 1804 ra đời đã kế thừa tinh thần này và duy trì nguyên tắc không thay đổi những thỏa thuận của vợ chồng về chế độ hôn sản
Hiện nay, nguyên tắc vợ chồng có quyền tự do lựa chọn chế độ tài sản được khẳng định ngay trong quy định đầu tiên của phần những quy định chung của Bộ luật dân sự về các chế độ tài sản của vợ chồng. Điều 1387 quy định: “Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng, mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy định sau đây”.
Thực tế, nhà lập pháp của Pháp đã đưa ra một hệ thống các chế độ tài sản của vợ chồng, bao gồm chế độ tài sản pháp định và các chế độ tài sản ước định. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ tài sản pháp định không có hiệu lực áp dụng một cách đương nhiên, trái lại, nó chỉ là một chế độ tùy nghi (facultatif). Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thỏa thuận một chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những thỏa thuận về vấn đề này, chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng.