Xin giới thiệu Soạn bài kiểm tra đánh giá : Con cò trong ca dao trang 86 Ngữ văn lớp 6 Cánh Diều hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 6. Mời các bạn đón xem!
Mục lục bài viết
1. Soạn bài Con cò trong ca dao ngắn gọn – Ngữ văn 6 tập 1:
Đọc văn bản Con cò trong ca dao (SGK Ngữ văn 6 tập 1 trang 86) và trả lời các câu hỏi.
CON CÒ TRONG CA DAO
(1) Trong ca dao dân ca Việt nam, có rất nhiều bài nói đến con cò. Những câu ca dao hay và có lẽ cũng rất cổ của ta, hầu hết mở đầu bằng “con cò…”: con bay lả bay la, con cò bay bổng bay cao, con cò lặn lội bờ ao, con cò trắng bạch như vôi, con cò vàng, con cò kì, con cò quăm,… Tại sao trong khi hát, nhân dân lao động Việt Nam lại hay nói nhiều đến loài chim ấy mà không nói đến loài chim khác?
(2) Trong các loài chim kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò thường gần nhiều với người nông dân hơn cả. Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân Việt Nam thường thấy con cò bên họ: con cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa bát ngát, con cò đứng trên bờ ruộng rỉa lông, rỉa cánh, ngắm nghía người nông dân làm lụng.
(3) Bạn thân nhất của người nông dân trong lao động và sản xuất là con trâu. Nhưng trâu phải cái nặng chình chịch, đi đứng vững vàng thật, nhưng chậm chạp, sống một cuộc đời gò bó, vất vả không mấy lúc thảnh thơi, cho nên chỉ những lúc nghĩ đến cuộc đời nhọc nhằn, cực khổ của mình, người nông dân mới liên hệ đến con trâu, con vật tiêu biểu nhất cho sức sản xuất nơi đồng ruộng.
(4) Còn những lúc người dân lao động Việt Nam xúc cảm, tâm trí muốn vươn lên, muốn ca hát cho tâm hồn bay bổng thoải mái trong khi làm lụng, thì chỉ có con cò gợi hứng cho họ nhiều. Con cò trắng bạch kia tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc nó vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc đời mà người dân lao động nước ta thời xưa hằng mong ước.
(Theo Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, NXB Văn học. Hà Nội, 2002)
Câu 1 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1)
Mục đích chính của đoạn trích trên là gì?
A. Cung cấp thông tin về con cò và người nông dân
B. Bày tỏ tình cảm của người viết với con cò
C. Giải thích vì sao trong ca dao hay nhắc tới con cò
D. Giới thiệu, thuyết minh về con cò và người nông dân
Trả lời:
C. Giải thích vì sao trong ca dao hay nhắc tới con cò
Câu 2 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Phương án nào sau đây thể hiện rõ yếu tố nghị luận trong đoạn trích trên?
A. Nhân vật và sự việc
B. Lí lẽ và bằng chứng
C. Lời kể và người kể
D. Thời gian và địa điểm
Trả lời:
B. Lí lẽ và bằng chứng
Câu 3 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Câu nào sau đây là câu nêu vấn đề để bàn luận?
A. Trong ca dao dân ca Việt Nam, có rất nhiều bài nói đến con cò.
B. Tại sao trong khi hát, nhân dân lao động lại hay nói nhiều đến con cò?
C. Những câu ca dao hay và cổ nhất của ta, hầu hết mở đầu bằng “con cò”.
D. Bạn thân nhất của người nông dân trong lao động và sản xuất là con trâu.
Trả lời:
B. Tại sao trong khi hát, nhân dân lao động lại hay nói nhiều đến con cò?
Câu 4 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Ý nào sau đây nêu đúng nhiệm vụ của đoạn (1) trong văn bản trên?
A. Giải thích vấn đề cần bàn luận
B. Nêu vấn đề cần bàn luận
C. Chứng minh ý kiến của người viết
D. Nêu cảm nghĩ của người viết
Trả lời:
B. Nêu vấn đề cần bàn luận
Câu 5 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Nội dung chính của đoạn (2) là gì?
A. Nói về sự gắn bó giữa con cò và người nông dân
B. Ca ngợi cuộc sống của con cò và người nông dân
C. Miêu tả đặc điểm và tính cách của loài cò
D. Miêu tả cuộc sống lao động của người nông dân
Trả lời:
A. Nói về sự gắn bó giữa con cò và người nông dân
Câu 6 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Ý chính của đoạn (3) là gì?
A. Khẳng định con trâu là người bạn thân nhất của người nông dân
B. Miêu tả đặc điểm công việc và tính cách chậm chạp của con trâu
C. Giải thích vì sao và khi nào người nông dân mới liên hệ đến con trâu
D. Chứng minh con trâu là tiêu biểu nhất cho sức sản xuất nơi đồng ruộng
Trả lời:
C. Giải thích vì sao và khi nào người nông dân mới liên hệ đến con trâu
Câu 7 (trang 87 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Câu nào sau đây nêu được ý chính của đoạn (4)?
A. Con cò mới là người bạn thân nhất của người nông dân khi lao động.
B. Con cò tuy ngày đêm lặn lội nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh.
C. Cuộc sống của con cò cũng vất vả nhưng có vẻ trong trắng, thanh cao.
D. Con cò phù hợp với tâm trạng muốn ca hát khi làm lụng của nông dân.
Trả lời:
D. Con cò phù hợp với tâm trạng muốn ca hát khi làm lụng của nông dân.
Câu 8 (trang 88 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Dòng nào nêu bằng chứng làm sáng tỏ cho lí lẽ: “Những câu ca dao hay và có lẽ cũng rất cổ của ta, hầu hết mở đầu bằng “con cò…”?
A. Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân thường thấy con cò bên họ
B. Con cò bay lả bay la, con cò bay bổng bay cao, con cò lặn lội bờ ao,…
C. Con cò lội theo luống cày, con cò bay trên đồng lúa bát ngát,…
D. Con cò trắng kia tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên mây xanh
Trả lời:
B. Con cò bay lả bay la, con cò bay bổng bay cao, con cò lặn lội bờ ao,…
Câu 9 (trang 88 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Dòng nào sau đây nói đúng về hiện tượng từ mượn trong văn bản Con cò trong ca dao?
A. Ít sử dụng từ mượn
B. Không sử dụng từ Hán Việt
C. Chỉ dùng từ thuần Việt
D. Có sử dụng từ tiếng Anh
Trả lời:
C. Chỉ dùng từ thuần Việt
Câu 10 (trang 88 SGK Ngữ văn 6 tập 1): Viết một đoạn văn (khoảng 3 – 4 dòng) để trả lời cho câu hỏi: “Vì sao văn bản trên là văn bản nghị luận?”.
Trả lời: Văn bản Con cò trong ca dao là văn bản nghị luận vì đã bàn luận về vấn đề lí do tại sao lại hay nói đến con cò khi hát mà người dân lao động Việt Nam lại không nhắc đến loài chim khác. Thứ nhất bài viết chỉ ra mối liện hệ giữa con cò với người nông dân. Sau đó nhấn mạnh hình ảnh con cò là ước mơ một cuộc sống vùng vẫy thoải mái của nhân dân lao động.
Gợi ý 1:
Văn bản “Con cò trong ca dao” là văn bản nghị luận. Tuy nhiên không chỉ đơn thuần là một nghiên cứu về hình ảnh của con cò, mà là một tác phẩm đi sâu vào tâm hồn văn hóa dân gian Việt Nam. Nhưng nó còn là một cuốn hồi ký của thời đại, kể về những điều tối tăm và rạng ngời của quá khứ mà chúng ta có thể học hỏi. Đây là một cái nhìn chân thực và cảm xúc về sự hiện diện đầy ý nghĩa của con cò trong ca dao.
Gợi ý 2:
Văn bản trên đề cập đến vấn đề quan trọng: tại sao trong những bài hát của người lao động Việt Nam, người thường nhắc đến các loài chim cò mà không đề cập đến các loài khác. Bài viết trình bày lập luận này một cách rõ ràng và sử dụng các ví dụ hợp lý. Hình ảnh con cò được miêu tả gần gũi, liên kết với hình ảnh người nông dân lao động trên cánh đồng, mang lại cảm hứng cho những người lao động khi làm việc vất vả trên đồng lúa.
2. Ý nghĩa hình ảnh con cò trong ca dao:
Hình ảnh con cò trong văn học và văn hóa dân gian Việt Nam thường mang theo nhiều ý nghĩa khác nhau. Dưới đây là một số ý nghĩa phổ biến của hình ảnh con cò trong ca dao:
– Sự kiên nhẫn và kiên định: Con cò thường được biết đến với sự kiên nhẫn khi đứng yên đợi săn mồi trong nước. Do đó, trong ca dao, hình ảnh con cò thường được sử dụng để tượng trưng cho sự kiên nhẫn, kiên định và không bỏ cuộc.
– Sự trầm lặng và suy tư: Con cò thường sống một cuộc sống trầm lặng, không gây ồn ào. Do đó, nó thường được sử dụng để tượng trưng cho sự suy tư, tĩnh lặng và sự cảnh giác.
– Sự cô đơn và hoang dã: Con cò thường sống ẩn dật trong môi trường tự nhiên và thích sự yên tĩnh. Hình ảnh này có thể tượng trưng cho sự cô đơn và hoang dã trong cuộc sống.
– Sự cứng cỏi và kiên cường: Con cò thường phải đối mặt với các điều kiện khắc nghiệt trong thiên nhiên, và do đó, hình ảnh này thường được sử dụng để tượng trưng cho sự cứng cỏi, kiên cường và sự đối mặt với khó khăn.
– Sự sẻ chia và hiếu thảo: Trong một số ca dao, con cò có thể được tượng trưng cho sự sẻ chia và lòng hiếu thảo, bởi nó thường chia sẻ mồi với các con cò khác trong bầy.
Tuy nhiên, ý nghĩa cụ thể của hình ảnh con cò trong mỗi ca dao có thể thay đổi tùy thuộc vào bối cảnh và nội dung cụ thể của câu ca dao đó.
3. Tổng quan về tác giả và tác phẩm:
3.1. Tác giả:
Vũ Ngọc Phan là nhà nghiên cứu, phê bình văn học, và dịch giả. Ông còn được biết đến với bút danh Chỉ Qua Thị. Ông sinh ngày 8/9/1902 và mất ngày 14/6/1987. Quê quán của ông là làng Đông Cảo, huyện Gia Bình, nay thuộc xã Đông Cửu, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh.
Thuở nhỏ, ông học chữ Hán rồi chuyển qua chữ Pháp. Sau khi đỗ Tú tài (1929), ông vừa đi dạy học tư ở Hà Nội, vừa làm báo, viết văn, và dịch sách văn học. Ông cộng tác với các báo Nhật Tân, Trung Bắc tân văn, Pháp Việt, Văn học, Trung Bắc chủ nhật, Sông Hương, Công luận… Ông cũng chủ trương tờ tuần báo Hà Nội tân văn (1939-1940) và là người sáng lập nhà xuất bản Hà Nội. Ngoài việc viết hàng trăm bài báo, ông đã dịch, phóng tác nhiều truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết từ tiếng Anh và tiếng Pháp, đồng thời biên soạn sách nghiên cứu phê bình và viết bút ký.
Các tác phẩm nổi bật của Vũ Ngọc Phan trong giai đoạn trước Cách mạng tháng 8/1945 bao gồm: “Trên đường nghệ thuật” (tiểu luận, 1940), “Thi sĩ Trung Nam” (thi thoại, 1942), “Nhìn sang láng giềng” (bút ký,1941), “Chuyện Hà Nội” (bút ký, 1944). Đáng chú ý nhất là bộ sách “Nhà văn hiện đại” (Phê bình văn học) gồm 4 quyển, một tập tài liệu dày hơn 1000 trang, mất 4 năm mới hoàn thiện, do nhà xuất bản Tân Dân ấn hành.
Thành tựu đáng kể của Vũ Ngọc Phan trong giai đoạn sau nằm ở lĩnh vực sưu tầm và nghiên cứu văn học dân gian. Ông xuất bản các công trình lớn như “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” (1956, gần 1000 trang, cho đến nay đã được tái bản 14 lần); “Truyện cổ Việt Nam” (1955), sau đó “Truyện cổ dân gian các dân tộc Việt Nam” (chủ biên, 1961), “Hợp tuyển văn học Việt Nam” (chủ biên, 1972). Các bài nghiên cứu phê bình chủ yếu về văn học dân gian Việt Nam đăng trên các báo và tạp chí hồi này được tập hợp vào cuốn “Qua những trang văn” (1976). Trước khi mất, ông kịp hoàn thành cuốn “Hồi ký”, xuất bản cuối năm 1987.
Trong gần 60 năm đeo đuổi nghiệp văn, Vũ Ngọc Phan để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ về sáng tác, dịch thuật, đặc biệt về nghiên cứu và phê bình văn học. Ông là người có công đưa ngành phê bình văn học non trẻ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX lên đỉnh cao, kết hợp được tính khoa học và tính nghệ thuật, cũng là người đầu tiên áp dụng cách phân loại các thể loại văn học dân gian một cách hệ thống, với tiêu chí rõ ràng và khoa học. Thuật ngữ “văn học dân gian” do ông đưa ra sử dụng, được đồng nghiệp chuyên ngành chấp nhận, thay cho các thuật ngữ “văn học bình dân”, “văn chương truyền khẩu” trước đó.
3.2. Tác phẩm:
“Tục Ngữ – Ca Dao – Dân Ca Việt Nam” là một trong những tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp đầu của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan. Ông đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh lần đầu vào năm 1996 cho chính tác phẩm này. Cuốn sách là kết quả của sự sưu tầm và khảo cứu đội lưng của ông trong suốt những năm tham gia kháng chiến chống Pháp, đặc biệt sau khi chuyển hướng sang công tác nghiên cứu văn sử địa. Ông đã hoàn thành công trình này vào năm 1956.
Tuyển tập “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” do Nhà xuất bản Văn Sử Địa ấn hành lần đầu vào năm 1956 và đến nay đã trải qua 10 lần tái bản.