Khi xảy ra tranh chấp thương mại, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài thương mại hoặc tòa án. Vậy quyền của bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại được quy định như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Quyền của bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại bằng hình thức giải quyết tranh chấp trọng tài thương mại:
Tố tụng trọng tài chỉ giải quyết tranh chấp giữa các bên tham gia tố tụng trọng tài với tư cách là nguyên đơn và bị đơn. Tố tụng trọng tài không có đương sự là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan giống như tố tụng dân sự.
Điều 9 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy định trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên hoàn toàn có quyền tự do thương lượng, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp hoặc có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp. Điều 58 Luật Trọng tài thương mại 2010 cũng quy định theo yêu cầu của các bên thì Hội đồng trọng tài sẽ tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết trong vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng tài sẽ thực hiện lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và có xác nhận của các Trọng tài viên. Hội đồng trọng tài thực hiện ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này chính là chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài.
Theo đó, bị đơn chỉ có quyền tham gia hòa giải khi mà cùng có yêu cầu của bị đơn và nguyên đơn về việc hòa giải. Nói cách khác thì quyền tham gia hòa giải của bị đơn sẽ chỉ được thực hiện khi cả bị đơn và nguyên đơn đều có yêu cầu hội đồng trọng tài hòa giải. Hội đồng trọng tài sẽ không tổ chức phiên hòa giải khi mà không có yêu cầu của các bên. Ngược lại, bị đơn cũng có quyền không tham gia hòa giải nếu như không có hành vi yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải. Do đó, dù cho nguyên đơn có yêu cầu hòa hòa giải, nhưng bị đơn không có yêu cầu hòa giải thì Hội đồng trọng tài không tiến hành hòa giải.
2. Quyền của bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại bằng hình thức giải quyết tại Tòa án:
Căn cứ các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì các quyền của bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại bằng hình thức giải quyết tại Tòa án bao gồm:
2.1. Quyền chủ động vắng mặt tại phiên hòa giải:
Bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại bằng hình thức giải quyết tại Tòa án có quyền chủ động vắng mặt tại phiên hòa giải. Chủ động vắng mặt ở tại phiên hòa giải có thể được thực hiện bằng cách là cố ý vắng mặt mà không thông báo cho tòa án hoặc là vắng mặt có thông báo với lý do chính đáng. Quyền chủ động này không được liệt kê trực tiếp ở trong nhóm quyền của bị đơn, nhưng lại gián tiếp được thừa nhận thông qua trường hợp không tiến hành hòa giải được ở tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 207 tại BLTTDS 2015 về khi “đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt” hoặc là “không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng”.
Đối với trường hợp “đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt” thì bị đơn có quyền không thông báo với tòa án là mình sẽ vắng mặt. Đây chính là quyền của bị đơn, vì bị đơn hoàn toàn không bị chế tài nào và cũng không có mất đi quyền được tham gia thỏa thuận trong các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Trường hợp bị đơn chủ động cố ý vắng mặt lần đầu thì theo trình tự, tòa án đã thực hiện thủ tục mở phiên hòa giải, nhưng không tiến hành hòa giải bởi vì lý do đương sự vắng mặt. Quyền chủ động này chưa kết thúc, bởi vì theo thủ tục tố tụng dân sự, thẩm phán có quyền tiến hành thủ tục thông báo lần thứ hai và thực hiện thủ tục mở phiên hòa giải lần thứ hai. Tuy nhiên, khi đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai thì bị đơn vẫn có quyền chủ động cố ý vắng mặt mà cũng không cần phải thông báo cho tòa án về sự vắng mặt đó. Như vậy, bị đơn sẽ có thể căn cứ vào quy định về cố ý vắng mặt để có khoảng thời gian suy nghĩ và quyết định vắng mặt ở tại phiên hòa giải hay không. Nếu như quyết định vắng mặt tại phiên hòa giải lần đầu thì bị đơn vẫn sẽ có thể được tòa án thông báo phiên hòa giải lần tiếp theo. Lúc đó, đến khi mà diễn ra phiên hòa giải lần tiếp theo, bị đơn vẫn hoàn toàn có quyền quyết định vắng mặt mà không thông báo cho tòa án.
Đối với trường hợp bị đơn không thể tham gia buổi hòa giải được vì có các lý do chính đáng thì cũng xem như là vụ án không tiến hành hòa giải được. Tuy nhiên, ở trong trường hợp này, bị đơn phải thực hiện thông báo cho tòa án lý do chính đáng không thể tham gia trong buổi hòa giải được. Đây cũng là trường hợp chủ động không tham gia trong buổi hòa giải, nhưng có lý do chính đáng, chứ không phải cố ý vắng mặt.
Trong thủ tục rút gọn, quyền không tham gia trong buổi hòa giải trên cơ sở chủ động cố ý vắng mặt hoặc là vắng mặt có lý do chính đáng chỉ thì được thực hiện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Bởi lẽ, trong quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, không có các thông tin về việc đương sự sẽ được hòa giải tại phiên tòa. Vì thế, trước khi phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn được khai mạc thì đương sự hoàn toàn không được chủ động quyết định sẽ vắng mặt ở trong phiên hòa giải. Như vậy, trong trường hợp này, sẽ chỉ có thể áp dụng tương tự khi mà đương sự cố ý vắng mặt tại phiên tòa (đồng nghĩa với việc cố ý vắng mặt do tòa án triệu tập hợp lệ), vắng mặt, không thể tham gia phiên tòa vì có các lý do chính đáng (đồng nghĩa với việc là không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng) hoặc là đương sự đề nghị xét xử vắng mặt (đồng nghĩa với việc đương sự đề nghị không tiến hành hòa giải).
2.2. Quyền chủ động đề nghị tòa án không tiến hành hòa giải:
Bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại bằng hình thức giải quyết tại Tòa án có quyền chủ động đề nghị tòa án không tiến hành hòa giải. Đây là quyền chung của đương sự, trong đó có quyền của bị đơn, được ghi nhận ở tại khoản 4 Điều 207 của BLTTDS 2015. Quyền này cũng được thực hiện kể từ khi mà bị đơn nhận được thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Cụ thể, khi bị đơn đã chủ động có yêu cầu tòa án không hòa giải thì tòa án sẽ không thực hiện tiến hành thủ tục mở phiên hòa giải. Điều này có nghĩa là bị đơn vẫn hoàn toàn có thể có mặt tham gia phiên họp để thực hiện thủ tục kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ, nhưng không có thủ tục hòa giải. Trường hợp này khác với trường hợp các đương sự chủ động cố ý vắng mặt hoặc có các lý do chính đáng để vắng mặt. Bởi vì, ở trường hợp đương sự chủ động đề nghị tòa án không tiến hành hòa giải thì khi đó tòa án sẽ không làm thủ tục mở phiên họp hòa giải và cũng không tiếp tục thông báo cho các đương sự để thực hiện tiến hành hòa giải trong thời gian còn lại của giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Theo thủ tục rút gọn, bị đơn cũng có quyền chủ động đề nghị đến tòa án không tiến hành hòa giải theo quy định tại ở tại khoản 4 Điều 207 BLTTDS. Thế nhưng, quyền này cũng phải thực hiện tại phiên tòa. Bởi vì trước khi mở phiên tòa, bị đơn không được thông tin trong những thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ và quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn.
2.3. Quyền tham gia hòa giải:
Bị đơn trong hòa giải tranh chấp thương mại bằng hình thức giải quyết tại Tòa án có quyền tham gia hòa giải. Tham gia hòa giải do tòa án tiến hành là một trong những quyền của đương sự nói chung được quy định tại khoản 11 của Điều 70 BLTTDS 2015. Như vậy, trừ những trường hợp vụ án không được hòa giải và các vụ án không tiến hành hòa giải được thì tòa án sẽ phải tiến hành hòa giải để đảm bảo về quyền tham gia hòa giải của các đương sự, trong đó có bị đơn. Tuy nhiên, quyền này sẽ chỉ có thể thực hiện được khi mà có sự đồng ý tham gia hòa giải của một hoặc các đương sự khác. Nếu như tất cả các đương sự khác không đồng ý tham gia hòa giải thì bị đơn cũng không thể thực hiện quyền này.
Theo khoản 3 Điều 212 của BLTTDS 2015 quy định trong trường hợp quy định tại khoản 4 của Điều 210 của BLTTDS mà các đương sự đã có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó sẽ chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu như không ảnh hưởng đến các quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trường hợp thỏa thuận của họ mà có ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này sẽ chỉ có giá trị và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu như được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản. Căn cứ vào quy định này thì vẫn có trường hợp BLTTDS 2015 cho phép thẩm phán thực hiện tiến hành hòa giải trong trường hợp có đương sự vắng mặt.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;
– Luật Trọng tài thương mại 2010.