Chuyển giao quyền yêu cầu là gì? Quy định về chuyển giao quyền yêu cầu trong nghĩa vụ dân sự?
Trong đời sống thường ngày thì việc các bên thực hiện việc giao kết các hợp đồng dân sự để nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân của mình. Khi các bên thực hiện việc giao kết hợp đồng thì đính kèm với đó là những quyền và nghĩa vụ mà các bên cần phải thực hiện. Nhưng không phải ai sau khi giao kết hợp đồng cũng tự mình thực hiện đầy đủ những quyền và nghĩa vụ đối với hợp đồng giao kết đó, cho nên pháp luật dân sự đã quy định về việc chuyển giao quyền yêu cầu trong nghĩa vụ dân sự để giải quyết vấn đề thực hiện quyền trong hợp đồng giao kết, việc pháp luật quy định này rất được nhiều người quan tâm.
Dịch vụ Luật sư
Cơ sở pháp lý:
Mục lục bài viết
1. Chuyển giao quyền yêu cầu là gì?
Theo như quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định về giao dịch dân sự theo đó mà có xác định các bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ với bên có quyền đối với một giao dịch dân sự do các bên có thỏa thuận trước đó. Mặc dù vậy, nhưng bên có nghĩa vụ trong một giao dịch dân sự sẽ không phải lúc nào cũng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và thực hiện nghĩa vụ đó đúng hạn. Do đó, để bên có nghĩa vụ có thể chủ động trong giao dịch dấn sự hơn, và nhanh chóng hoàn thành nghĩa vụ, pháp luật đã trao cho bên có quyền quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ. Song với đó khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên có quyền yêu cầu họ phải thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ. Từ đó có thể rút ra được một vấn đề liên quan đó là quyền yêu cầu được khẳng định là sự đôn đốc, nhắc nhở thực hiện nghĩa vụ, tránh việc chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ.
Từ quy định này, chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định là sự thỏa thuận giữa bên có quyền với bên thứ ba (bên thế quyền) nhằm chuyển giao quyền yêu cầu cho bên thứ ba đó. Bên thế quyền là chủ thể mới, có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ đối với mình. Để hiểu theo cách khác và đúng đắn hơn thì chuyển giao quyền yêu cầu là một hợp đồng bởi việc chuyển giao quyền yêu cầu phải được sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao.
Bên cạnh đó thì chuyển giao quyền yêu cầu được quy định khác với việc thực hiện quyền yêu cầu thông qua người thứ ba hay được xác định là người ủy quyền, trong chuyển giao quyền yêu cầu, khi quyền yêu cầu được chuyển giao thì quan hệ nghĩa vụ giữa bên chuyển quyền và bên có nghĩa vụ sẽ chấm dứt và sẽ phát sinh một quan hệ nghĩa vụ mới giữa người thế quyền với người có nghĩa vụ. Chính vì thế mà pháp luật cho phép quyền yêu cầu có thể tự do chuyển giao cho một bên thứ ba khác. Có thể hiểu, chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận của các bên mà theo đó bên có quyền yêu cầu sẽ chuyển giao quyền yêu cầu cho người thứ ba. Thực chất chuyển giao quyền yêu cầu là một hợp đồng, bởi sự chuyển giao dựa trên thỏa thuận và thống nhất ý chí của bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao. Khác với thực hiện quyền yêu cầu thông qua người thứ ba, khi quyền yêu cầu được chuyển giao, quan hệ giữa bên chuyển giao và bên có nghĩa vụ sẽ chấm dứt làm phát sinh quan hệ mới là quan hệ giữa bên nhận chuyển giao và bên có nghĩa vụ.
2. Quy định về chuyển giao quyền yêu cầu trong nghĩa vụ dân sự:
Trên cơ sở quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 thì một thuật ngữ hầu như trong Điều luật nào cũng được nhắc đến và là một trong những thuật ngữ được sử dụng xuyên suốt trong Bộ luật này đó là thuật ngữ nghĩa vụ dân sự. Trong quy định của pháp luật dân sự thì trong các giao kết hợp đồng dân sự các bên chủ thể có quyền và nghĩa vụ “đối trọng” nhau, quyền của bên chủ thể này sẽ là nghĩa vụ của bên chủ thể kia và ngược lại, nghĩa vụ phải được tuân thủ và chỉ đặt ra khi đáp ứng cho quyền lợi của bên chủ thể còn lại trong giao dịch.
Quyền yêu cầu trong quan hệ dân sự là quyền của bên có quyền, theo đó, bên có quyền có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ với mình. Để tạo điều kiện thuận lợi, linh hoạt cho các bên tham gia giao dịch, pháp luật đã cho phép bên có quyền được chuyển giao quyền yêu cầu cho người khác. Cụ thể, Điều 365 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chuyển giao quyền yêu cầu như sau:
“Điều 365. Chuyển giao quyền yêu cầu
1. Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận, trừ trường hợp sau đây:
a) Quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín;
b) Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về việc không được chuyển giao quyền yêu cầu”.
Chuyển giao quyền yêu cầu sẽ đem lại hậu quả pháp lý nhất định đối với bên thế quyền, bên chuyển giao và bên có nghĩa vụ. Do đó, theo quy định của pháp luật, việc chuyển giao quyền yêu cầu phải tuân thủ theo các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, quyền yêu cầu phải là quyền yêu cầu có hiệu lực về mặt pháp lý và không thuộc trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 365
Thứ hai, khi thực hiện chuyển giao quyền yêu cầu, bên có quyền phải thông báo cho bên có nghĩa vụ biết. Mặc dù về nguyên tắc là không cần sự đồng ý của bên có nghĩa vụ (trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác), tuy nhiên bên có quyền phải thông báo cho bên có nghĩa vụ bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu.
Thứ ba, trong trường hợp chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm cũng được chuyển giao.
Thứ tư, người chuyển giao quyền yêu cầu phải cung cấp thông tin cần thiết, chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền, nếu không thực hiện mà xảy ra thiệt hại thì người chuyển giao quyền yêu cầu phải bồi thường thiệt hại.
Việc chuyển giao quyền yêu cầu sẽ làm chấm dứt mối quan hệ giữa người có quyền với người có nghĩa vụ, theo đó quan hệ nghĩa vụ sẽ được xác lập giữa người thế quyền với người có nghĩa vụ. Người yêu cầu không chịu trách nhiệm về khả năng thực nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, để đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên đặc biệt là bên yếu thế trong quan hệ dân sự, trong một số trường hợp điều luật quy định về việc không được phép chuyển giao quyền yêu cầu. Đó là quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Đây là quyền tài sản gắn liền với nhân thân của người có quyền. Cụ thể, quyền yêu cầu cấp dưỡng được pháp luật trao cho những người ở trong những điều kiện đặc biệt và thường có mối quan hệ thân thích với người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín… bao gồm cả thiệt hại về vật chất cùng thiệt hại về tinh thần cho cả người bị thiệt hại và thân nhân của người bị thiệt hại. Nêu những quyền này được chuyển giao thì nó không còn ý nghĩa đối với người có quyền nữa. Vì vậy, trong trường hợp này pháp luật không cho phép chuyển giao quyền yêu cầu.
bên cạnh đó, theo như quy định tại khoản 2 Điều 365 Bộ luật dân sự 2015, việc chuyển giao quyền yêu cầu không ảnh hưởng đến lợi ích của bên có nghĩa vụ bởi lẽ khi thực hiện nghĩa vụ với bất kì ai nhận chuyển giao quyền thì người này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó. Chính vì vậy, pháp luật cho phép việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ.
“2. Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ.
Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này”.
Từ quy định trên có thể thấy việc Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc thực hiện quyền dân sự của mình một cách nhanh chóng và hiệu quả. Không những thế mà Bộ luật này còn có quy định về thủ tục trong khi chuyển giao quyền yêu cầu trong nghĩa vụ dân sự thì pháp luật này có quy định người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Ngoài ra, đối với các trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ do việc không thông báo gây ra thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này. Tuy nhiên, kể cả trường hợp các bên đã thông báo nhưng do việc chuyển quyền mà phát sinh chi phí tăng lên đối với bên có nghĩa vụ thì cũng phát sinh nghĩa vụ thanh toán của bên chuyển quyền đối với bên có nghĩa vụ.