Quân nhân có được quyền đứng đầu chi nhánh công ty không? Quân nhân có được đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện của một doanh nghiệp không?
Quân nhân có được quyền đứng đầu chi nhánh công ty không? Quân nhân có được đứng đầu chi nhánh, văn phòng đại diện của một doanh nghiệp không?
Tóm tắt câu hỏi:
Cho tôi hỏi, theo quy định pháp luật quân nhân không được thành lập, quản lý doanh nghiệp. Chi nhánh là 1 bộ phận của doanh nghiệp, thực hiện nhiệm vụ theo sự ủy quyền của doanh nghiệp, không là pháp nhân. Vậy quân nhân có được làm đại diện (người đứng đầu) cho một chi nhánh của một công ty hay không. Nhờ Luật sự tư vấn.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
+ Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng năm 2015
+ Luật Sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2008
+ Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005
2. Nội dung tư vấn
Quân nhân chuyên nghiệp là những công dân Việt Nam có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ phục vụ trong Quân đội nhân dân, được tuyển chọn, tuyển dụng theo chức danh và được phong hàm quân nhân chuyên nghiệp. Sĩ quan quân đội là cán bộ của Đảng cộng sản Việt Nam và nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực quân sự, được nhà nước phong hàm cấp Uý, cấp Tá, cấp Tướng.
Để xác định quân nhân có quyền làm đại diện (đứng đầu) của một chi nhánh của một doanh nghiệp thì tại khoản 1 Điều 18
"Điều 18. Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp
1. Tổ chức, cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Tổ chức, cá nhân sau đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức;
c) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
d) Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ) Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
e) Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết định xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định, liên quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản, phòng, chống tham nhũng.
Trường hợp Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu, người đăng ký thành lập doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh…"
Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì quân nhân không được quyền thành lập, và thực hiện quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, trừ trường hợp họ là những người được đơn vị, cơ quan có thẩm quyền cử để làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp. Việc quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở việc thực hiện các công việc có tính chất quản lý, hoặc giữ chức vụ quản lý trong doanh nghiệp. Đồng thời theo quy định của Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 cũng quy định cán bộ, công chức, viên chức không được thành lập, tham gia quản lý, điều hành donah nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; hoặc kinh doanh trong trong lĩnh vực mà trước đây mình có trách nhiệm quản lý sau khi thôi giữ chức vụ trong một thời hạn nhất định theo quy định của Chính phủ.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật về phòng chống tham nhũng: 1900.6568
Từ những căn cứ nêu trên, khi xem xét việc quân nhân có quyền đứng đầu (làm đại diện) của một chi nhánh hay không thì theo quy định khoản 1 Điều 45 Luật doanh nghiệp năm 2014, chi nhánh của doanh nghiệp được xác định là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp kể cả chức năng đại diện theo ủy quyền. Người đứng đầu chi nhánh được xác định là người chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của chi nhánh, thực hiện nhiệm vụ theo ủy quyền của pháp nhân trong phạm vi và thời hạn ủy quyền (khoản 5 Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2015).
Dựa trên những phân tích nêu trên, khi một quân nhân thực hiện việc đại diện (người đứng đầu) của một chi nhánh của doanh nghiệp, điều đó có nghĩa là quân nhân này đang thực hiện một trong những hoạt động quản lý trong doanh nghiệp (ở đây là chức vụ quản lý hoạt động của chi nhánh); thực hiện nhiệm vụ của chi nhánh theo ủy quyền của pháp nhân, doanh nghiệp đó. Như vậy, trong trường hợp này, quân nhân cũng không được tham gia vào tư cách đứng đầu chi nhánh hay văn phòng đại diện.