Khái niệm về nhà nước và pháp luật? Nguồn gốc ra đời của nhà nước và pháp luật? Phân tích mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật? Ví dụ mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật?
Mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật từ xưa cho đến giai đoạn hiện nay vẫn luôn là một trong số những mối quan tâm của nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống xã hội. Ta thấy được rằng, từ khi ra đời cho đến nay nhà nước và pháp luật luôn có mối quan hệ đặc biệt trong lý luận và cả trong thực tiễn. Bài viết dưới đây chúng ta sẽ cùng nhau phân tích mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật? Lấy ví dụ cụ thể về mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm về nhà nước và pháp luật:
Nhà nước được hiểu cơ bản chính là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên được tạo lập ra để làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện những chức năng quản lý của mình đặc biệt là để nhằm mục đích có thể duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong một xã hội có giai cấp.
Pháp luật được hiểu cơ bản chính là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc được thừa nhận và pháp luật sẽ được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực của nhà nước, pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và đây cũng chính là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội.
2. Nguồn gốc ra đời của nhà nước và pháp luật:
Xã hội cộng sản nguyên thủy xuất hiện và con người trong xã hội này đều sống bằng hình thức săn bắt hái lượm. Trong quá trình sống ở xã hội cộng sản nguyên thủy con người lại ngày một phát triển và cũng chính từ đó mà đã dẫn đến nhu cầu của con người ngày càng tăng. Việc này cũng đã đòi hỏi con người sẽ cần phải cải tiến đối với những công cụ lao động của mình và từ đó con người sẽ dần chuyển sang hình thức chăn nuôi, trồng trọt. Việc này sẽ làm năng suất lao động tăng lên và nó cũng đã dẫn đến sự dư thừa của cải.
Con người trong xã hội sẽ có nhu cầu trao đổi hàng hóa với nhau những bởi vì giá trị hàng hóa khi thực hiện việc trao đổi lại không ngang bằng nên tiền cũng vì thế mà đã xuất hiện và từ đó mà xã hội phân hóa giàu nghèo. Xã hội phân hóa giàu nghèo đã phân chia thành giai cấp: đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, giai cấp thống trị sẽ ra sức bốc lột đối với giai cấp bị trị và cũng chính từ đó mà đã dẫn đến mâu thuẫn xuất hiện. Giai cấp bị trị đã vùng lên đấu tranh để nhằm mục đích có thể giành được quyền lợi của mình.
Mâu thuẫn giữa các giai cấp trong xã hội loài người là không thể điều hòa được. Nên cũng chính bởi vì vậy nhằm mục đích để giai cấp thống trị có thể xoa dịu giai cấp bị trị, giai cấp thống trị đã tổ chức ra một thiết chế quyền lực mới nhằm mục đích để có thể thông qua đó bảo vệ lợi ích của giai cấp mình cũng như góp phần duy trì trật tự và ổn định xã hội từ đó nhà nước ra đời. Nhằm mục đích có thể duy trì trật tự xã hội và giúp giai cấp thống trị có thể quản lý nhà nước thì cũng cần có công cụ quản lý. Và công cụ đó là pháp luật. Cũng chính từ đó pháp luật ra đời.
3. Phân tích mối quan hệ giữa Nhà nước và pháp luật:
Chúng ta nhận thấy rằng, mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật đã được thể hiện ở sự thống nhất giữa nhà nước và pháp luật cũng như là sự khác biệt giữa nhà nước và pháp luật và sự tác động qua lại giữa nhà nước và pháp luật. Cụ thể như sau:
– Sự thống nhất giữa nhà nước và pháp luật:
Nhà nước và pháp luật được biết đến là hai hiện tượng xã hội và chúng luôn gắn liền với nhau, cũng chính vì thế mà nguyên nhân về sự ra đời của nhà nước cũng chính là nguyên nhân chính làm xuất hiện pháp luật. Như mỗi chúng ta đều đã biết, nhà nước và pháp luật đều là những hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, đây thực chất đều là sản phẩm của xã hội khi xã hội đó có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhà nước và pháp luật chỉ ra đời và tồn tại khi trong xã hội khi xã hội đó có những điều kiện nhất định, điều kiện đó chính là có sự tư hữu, xã hội phân chia thành giai cấp và đấu tranh giai cấp. Như vậy, ta thấy rằng, nhà nước và pháp luật có sự thống nhất với nhau.
– Sự khác biệt giữa nhà nước và pháp luật:
Như chúng ta đã biết, nhà nước là tổ chức đặc biệt của quyền lực công và cũng chính là phương thức hay chính hình thức tồn tại của xã hội có giai cấp. Còn pháp luật lại được hiểu là hệ thống các quy phạm được nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện nhằm mục đích để có thể thông qua đó điều chỉnh hành vi và các quan hệ xã hội của con người. Nhà nước sẽ đại diện cho sức mạnh còn pháp luật thì được sử dụng để đại diện cho ý chí. Khi chúng ta nhắc đến nhà nước tức là chúng ta đang nói đến yếu tố con người cùng cơ chế bộ máy, còn khi chúng ta nói pháp luật thì tức là chúng ta đang là nói đến các quy tắc hành vi của con người.
– Sự tác động qua lại của Nhà nước và pháp luật.
Sự tác động của nhà nước đến pháp luật được thể hiện trước hết đó chính là ở việc nhà nước là cơ quan thực hiện ban hành, thay đổi, hủy bỏ, hoàn thiện đối với pháp luật, nhà nước sẽ có chức năng bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm, bảo đảm pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống. Pháp luật được hiểu là là sản phẩm trực tiếp của hoạt động nhà nước. Pháp luật được ban hành cũng có vai trò quan trọng và được sử dụng nhằm mục đích để có thể điều chỉnh hoạt động nhà nước và các quan hệ xã hội. Không những thế, hoạt động của nhà nước về cơ bản đều là mang tính pháp lí.
Pháp luật chính là mục đích tồn tại của nhà nước. Pháp luật cũng được biết đến là loại phương tiện được dùng nhằm mục đích để có thể kiểm soát hoạt động nhà nước.Thông qua pháp luật mà nhà nước sẽ có thể thực hiện được các nhiệm vụ, chức năng, chính sách đối nội và đối ngoại của mình, không những thế mà nhà nước còn có thể từ đó xác định chế đội chính trị, kinh tế, xã hội, quy chế pháp lý đối với các chủ thể là những cá nhân. Toàn bộ hoạt động của nhà nước đều xuất phát từ chế độ pháp luật của nhà nước đó
Ta thấy được rằng, pháp luật có ý nghĩa cũng như những vai trò khá quan trọng để củng cố hoàn thiện nhà nước. Và để nhà nước có thể thích ứng sự phát triển khách quan của xã hội. Không có chế độ nhà nước nào tồn tại mà lại có thể thiếu pháp luật và ngược lại. Đối với một nhà nước thì sự hoàn thiện tiến bộ hay lạc hậu, trì trệ của pháp luật cũng từ đó mà nó sẽ kéo theo sự hoàn thiện hay trì trệ, lạc hậu của nhà nước và cũng ngược lại thì việc đổi mới, hoàn thiện nhà nước và pháp luật cũng sẽ chỉ thực sự có ý nghĩa và đạt được hiệu quả khi được tiến hành song song trên cơ sở giám sát của toàn xã hội.
4. Ví dụ mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật:
Như chúng ta đã phân tích cụ thể ở bên trên, nhà nước và pháp luật Việt Nam cùng ra đời và chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau. Nhà nước sẽ có chức năng bảo vệ pháp luật thực thi hiệu quả nhất. Nhà nước cũng có một bộ máy cưỡng chế đặc biệt nhằm mục đích để đảm bảo cho việc thực thi pháp luật được diễn ra một cách chính xác.
Pháp luật thì sẽ lại được nhà nước ban hành và được thừa nhận. Cũng chính bởi vì thế, nhà nước ta vẫn luôn đảm bảo cho pháp luật được thực thi một cách nhanh chóng, hữu hiệu nhất trong cuộc sống con người. Pháp luật sẽ do nhà nước ban hành, pháp luật sẽ được truyền bá và sẽ được phổ biến tới mỗi người bằng nhiều con đường khác nhau và chính thức thông qua các hệ thống cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Pháp luât cũng sẽ có khả năng có những tác động đến mọi chủ thể là những cá nhân hay là các tổ chức trong xã hội. Không những thế, pháp luật cũng sẽ điều chỉnh hầu hết đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội
Nhà nước ta cũng đã ban hành, thay đổi, hủy bỏ, hoàn thiện pháp luật, cùng với đó là tiến hành bảo vệ pháp luật khỏi sự vi phạm, bảo đảm pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống của người dân một cách rất rõ ràng. Trước đổi mới, Đảng và Nhà nước ta cũng đã thực hiện chính sách ngoại giao khép kín. Hệ thống pháp luật của nước ta giai đoạn này thực chất cũng đã ngăn cấm các hoạt động đầu tư của tư bản nước ngoài vào. Nhưng, ta thấy được rằng, từ khi mở cửa và hội nhập nền kinh tế thì Đảng và Nhà nước ta cũng đã đặt quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Trước tình hình đó thì ta thấy được rằng, pháp luật của Việt Nam về cơ bản cũng đã có những thay đổi nhằm mục đích để sao cho có thể phù hợp với xu thế chung. Không những thế thì Nhà nước ta đã có nhiều chính sách được ban hành nhằm mục đích để có thể thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài như tạo môi trường đầu tư thông thoáng đối với các quốc gia và các nhà đầu tư. Những chính sách đó về cơ bản cũng đã được thể hiện tập trung trong pháp luật Việt Nam giai đoạn hiện hành.