Việc bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc hoàn trả khoản vay của khách hàng là điều không còn quá xa lạ. Tuy nhiên, cần phải lưu ý một số điều dưới đây khi nhận tài sản bảo đảm để gán nợ.
Mục lục bài viết
1. Hiểu như thế nào về hành vi nhận tài sản bảo đảm để gán nợ?
Hiện nay có rất nhiều trường hợp, sử dụng tài sản của mình để đảm bảo cho khoản vay của cá nhân hoặc tại các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên sau đó đã không có khả năng để thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Nợ xấu vốn dĩ đã trở thành nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong hoạt động của mỗi ngân hàng và mỗi tổ chức tín dụng, nợ xấu còn là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế của đất nước và của xã hội. Tuy nhiên trên thực tế, hiệu quả xử lý nợ xấu chưa cao, vấn đề này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, một phần là do những vướng mắc và khó khăn trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm để cấn trừ nợ. Một trong những biện pháp mà các tổ chức tín dụng và các cá nhân có thể áp dụng đó là nhận tài sản để gán nợ. Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật hiện nay vẫn chưa đưa ra khái niệm thế nào là hành vi nhận tài sản bảo đảm để gán nợ (hay còn gọi là cấn trừ nợ). Trên phương diện thực tế: Nhận tài sản bảo đảm để gán nợ là việc các chủ thể nhận chính tài sản bảo đảm của khách hàng đã thế chấp trong quá trình vay vốn để thay thế cho một phần hoặc thay thế toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đó.
Căn cứ để xác định phạm vi thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong trường hợp này sẽ được xác định dựa trên giá trị tài sản nhận để gán nợ. Giá trị tài sản được thực hiện nhận để cấn trừ nợ có thể sẽ có sự thay đổi theo thời gian so với giá trị tài sản vào thời điểm nhận thế chấp vay vốn, có thể tăng lên hoặc giảm đi tùy theo thị trường và nhu cầu của người dân. Vì vậy, để có thể đảm bảo tính khách quan của việc nhận tài sản bảo đảm để gán nợ, thì các tổ chức tín dụng hiện nay thông thường cần thuê một công ty có chức năng thẩm định giá độc lập để tiến hành hoạt động thẩm định giá tài sản đó tại thời điểm gán nợ. Nếu như xét thấy giá trị tài sản nhận để gán nợ có thể trả hết cho khoản nợ gốc và phần lãi vay thì người vay coi như hết nghĩa vụ trả nợ với bên cho vay. Ngược lại, nếu như giá trị tài sản gán nợ nhỏ hơn khoản nợ gốc hoặc bằng nợ gốc và không được miễn hoặc giảm lãi suất, thì khách hàng đó vẫn sẽ có nghĩa vụ đối với dư nợ còn lại tại các tổ chức tín dụng.
Khách hàng sau khi chấp nhận phương án nhận tài sản bảo đảm để gán nợ sẽ phải có trách nhiệm phối hợp cùng với các tổ chức tín dụng để tiến hành thủ tục liên quan đến việc bàn giao cũng như chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản hợp pháp đó cho các chủ thể khác. Hiện nay thì có thể thấy, các tổ chức tín dụng chủ yếu nhận tài sản là bất động sản để có thể làm trụ sở của các chi nhánh và văn phòng giao dịch, nhằm mục đích mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh của mình, còn những tài sản là động sản hay hàng tồn kho thường sử lý theo hình thức phát mãi theo hướng tìm người có nhu cầu mua, thay vì nhận cấn trừ, xuất phát từ lý do như: Tốn thêm chi phí để thuê người trông giữ tài sản và không có nhu cầu sử dụng các loại tài sản này.
2. Những điều cần lưu ý khi nhận tài sản bảo đảm để gán nợ:
Mặc dù hoạt động nhận tài sản bảo đảm để gán nợ theo như phân tích ở trên là vấn đề được nhiều chủ thể quan tâm và áp dụng trên thực tế khi người vay không thể thực hiện được nghĩa vụ trả nợ của mình. Tuy nhiên, vấn đề này cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Vì vậy, cần phải lưu ý những vấn đề sau đây khi nhận tài sản bảo đảm để gán nợ:
Thứ nhất, khi ra quyết định nhận tài sản bảo đảm để bù trừ cho khoản vay, thì cần phải thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm đó cho chủ sở hữu hợp pháp. Tức là trước khi xử lý tài sản bảo đảm thì bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản trong một thời gian hợp lý theo quy định của pháp luật về việc cấn trừ tài sản đó. Đối với những tài sản bảo đảm có nguy cơ bị hư hỏng và có khả năng dẫn đến giảm suốt giá trị trên thực tế hoặc mất toàn bộ giá trị thì bên nhận bảo đảm sẽ có quyền xử lý ngay, tuy nhiên sẽ phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên nhận bảo đảm khác về việc xử lý tài sản đó.
Thứ hai, trong trường hợp không thực hiện được nghĩa vụ của mình thì người đang giữ tài sản bảo đảm sẽ phải có nghĩa vụ giao tài sản đó cho bên nhận bảo đảm để cấn trừ theo quy định của pháp luật, nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi cho bên nhận bảo đảm. Trong trường hợp người quản lý tài sản không giao tài sản cho bên nhận bảo đảm thì bên nhận bảo đảm cần phải thực hiện thủ tục yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, tránh những rủi ro không đáng có.
Thứ ba, lựa chọn phương thức xử lý tài sản bảo đảm. Nếu hợp đồng được ký kết giữa các bên đã ghi rõ phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì cần phải thực hiện theo sự thỏa thuận đó. Còn nếu như hợp đồng không có thỏa thuận rõ ràng thì các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn một trong những phương thức xử lý tài sản bảo đảm bất kỳ theo quy định của pháp luật, trong đó hoạt động cấn trừ nợ cũng là một trong những hoạt động được pháp luật cho phép.
Thứ tư, khi nhận tài sản bảo đảm để gán nợ thì cần phải tiến hành hoạt động lập biên bản xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cần phải tránh mọi dấu hiệu liên quan đến yếu tố hình sự. Nhận tài sản bảo đảm để gán nợ nhiều trường hợp vô tình lại thỏa mãn cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội danh tương ứng. Bởi vì về bản chất, vay nợ được xem là một giao dịch dân sự, pháp luật luôn luôn yêu tiên sự thỏa thuận của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Nếu như không thỏa thuận và thương lượng được thì chủ nợ có quyền khởi kiện ra cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện theo quy định của pháp luật. Trên thực tế có nhiều người vay đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ hoặc trả nợ không đúng hạn theo thỏa thuận của các bên khiến cho chủ nợ tự ý chiếm giữ và định đoạt tài sản của người vay để cấn trừ. Đây được xem là hành vi xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của người khác. Tùy vào từng tính chất và mức độ của hành vi “gán nợ” mà chủ nợ hoặc người thực hiện hành vi đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một trong những tội sau đây:
– Trường hợp chủ nợ dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có những hành vi khác không chế làm cho người bị tấn công (có thể là chủ tài sản hoặc người đang quản lý tài sản hợp pháp) lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhầm mục đích chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản căn cứ theo quy định Điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015;
– Trong trường hợp chủ nó đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng các thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người vay nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản căn cứ theo quy định tại Điều 170 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Vì vậy, trong quá trình nhận tài sản bảo đảm để gán nợ, cần phải lưu ý những vấn đề trên đây để tránh vi phạm quy định của pháp luật và tránh những hậu quả không đáng có.
3. Có được nhận tài sản bảo đảm để gán nợ không?
Căn cứ theo quy định tại Điều 299 của Dân sự năm 2015 có quy định về các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể như sau:
– Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên;
– Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật;
– Các trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác.
Bên cạnh đó, căn cứ theo quy định tại Điều 303 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về phương thức xử lý tài sản bảo đảm. Theo đó, bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận với nhau một trong những phương thức xử lý sao đây:
– Đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật;
– Bên nhận bảo đảm từ bán tài sản theo thỏa thuận của các bên;
– Bên nhận tài sản bảo đảm nhận chính tài sản đó để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
– Những phương thức khác theo thỏa thuận của các bên sao cho không vi phạm quy định của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Như vậy có thể nói, nếu như bên bảo đảm vi phạm nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo đảm hoàn toàn có quyền xử lý tài sản thông qua hình thức nhận tài sản bảo đảm để gán nợ (một trong những hình thức của việc nhận tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm).
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.