Một số quy định về quyền sở hữu? Nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản? Các căn cứ xác lập quyền sở hữu?
Quyền sở hữu đối với tài sản là một trong số những quyền cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu. Trên thực tế, quyền sở hữu phát sinh phải dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định do pháp luật quy định cụ thể. Hiện nay, các quy định về quyền sở hữu đã trở thành phạm trù pháp lí được xây dựng nhằm mục đích phản ánh các quan hệ sở hữu trong chế độ sở hữu nhất định. Tuy nhiên nhiều chủ thể lại chưa hiểu rõ về quyền này từ đó không thể đảm bảo được đầy đủ quyền và những lợi ích hợp pháp của mình. Vậy, quyền sở hữu đối với tài sản là gì và nội dung cụ thể ra sao? Bài viết dưới đây Luật Dương Gia sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Luật sư tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.6568
1. Một số quy định về quyền sở hữu:
1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu:
Theo quy định tại Điều 158
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật.”
Như vậy, ta nhận thấy, theo quy định của pháp luật thì quyền của chủ thể đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình (theo nghĩa chủ quan) bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyển định đoạt của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Qua đó, ta có thể hiểu quyền sở hữu là hệ thống các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong các lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, những tài sản khác theo quy định cụ thể tại Điều 163
Ta nhận thấy, quyền sở hữu là một trong số những quyền năng dân sự chủ quan của từng loại chủ sở hữu nhất định đối với một tài sản cụ thể, được xuất hiện trên cơ sở nội dung của quy phạm pháp luật quy định về sở hữu.
Không những thế, quyền sở hữu còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự – quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu.
1.2. Về hình thức sở hữu:
Bộ luật dân sự năm 2015 ra đời đã ghi nhận ba hình thức sở hữu sau đây: Sở hữu toàn dân; sở hữu riêng và sở hữu chung. Cụ thể:
– Sở hữu toàn dân được quy định cụ thể từ Điều 197 đến Điều 204: Các loại đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các loại tài sản do cơ quan Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Tài sản thuộc hình thức sở hữu toàn dân là một hình thức sở hữu đặc biệt, không thể coi đây là một dạng của sở hữu riêng hoặc sở hữu chung.
– Sở hữu riêng được quy định cụ thể tại Điều 205 và Điều 206:
Đây là sở hữu của một cá nhân hoặc một pháp nhân; tài sản hợp pháp thuộc sở hữu riêng không bị hạn chế về số lượng, giá trị theo quy định pháp luật.
Các chủ sở hữu được pháp luật quy định có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản sở hữu riêng của mình nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không gây ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
– Sở hữu chung được quy định cụ thể từ Điều 207 đến Điều 220:
Đây là một hình thức sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản. Hiện nay, sở hữu chung bao gồm sở hữu chung theo phần và sở hữu chung hợp nhất.
Sự phân loại các hình thức sở hữu này đã góp phần quan trọng nhằm bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của
1.3. Về thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản:
Theo quy định tại Điều 161 Bộ luật dân sự năm 2015 có nội dung sau đây:
– Pháp luật quy định thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản sẽ được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
– Còn đối với trường hợp luật không có quy định thì thực hiện theo thỏa thuận của các bên.
– Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thỏa thuận thì thời điểm xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là thời điểm tài sản được chuyển giao.
Thời điểm tài sản được chuyển giao được hiểu là thời điểm bên có quyền hoặc người đại diện hợp pháp của bên có quyền chiếm hữu tài sản. Đối với trường hợp tài sản chưa được chuyển giao mà lại phát sinh hoa lợi, lợi tức thì hoa lợi, lợi tức thuộc về bên có tài sản chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác giữa các bên đáp ứng đúng các yêu cầu của pháp luật.
2. Nguyên tắc xác lập, thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản:
Theo Điều 160
– Thứ nhất: Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được xác lập, thực hiện trong trường hợp Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan quy định.
Đây là một nguyên tắc quan trọng để xác lập, thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản. Không chỉ riêng với quyền sở hữu đối với tài sản mà tất cả các quyền khác đều cần được xác lập, thực hiện trong các trường hợp do Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan quy định nhằm để đảm bảo tính pháp lý của quyền sở hữu tài sản đó.
Cần lưu ý rằng quyền khác đối với tài sản vẫn có hiệu lực trong trường hợp quyền sở hữu được chuyển giao, trừ trường hợp Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan quy định khác.
– Thứ hai: Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Bất cứ một hành vi trái pháp luật nào đều không có hoặc mất đi giá trị pháp lý. Pháp luật dân sự rất coi trọng sự tự do trong ý chí của các chủ thể tham gia các giao dịch dân sự nhưng mọi hành vi theo ý chí của các chủ thể đó đối với tài sản đều không được trái với quy định của luật, gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Trong trường hợp vi phạm thì căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi mà các chủ thể sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
– Thứ ba: Chủ thể có quyền khác đối với tài sản được thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người khác.
Nguyên tắc này lại một lần nữa nhấn mạnh các chủ thể khi xác lập, thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản sẽ không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản hoặc của người khác. Các chủ thể có quyền khác đối với tài sản được pháp luật cho phép được thực hiện mọi hành vi trong phạm vi quyền được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 và các luật khác có liên quan.
Như chúng ta đã biết, quyền sở hữu trong
3. Các căn cứ xác lập quyền sở hữu:
Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 thì quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản dựa trên những căn cứ cụ thể sau đây:
– Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản dựa trên các hoạt động lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp.
Các công dân bằng sức lao động của mình đã tạo ra các sản phẩm, các thành quả lao động thì họ hoàn toàn có quyền sở hữu đối với những tài sản được tạo ra bằng chính lao động của họ.
– Được chuyển giao quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Các thoả thuận là cơ sở của các hợp đồng, việc thoả thuận này của các bên với mục đích hợp pháp là chuyển giao tài sản và quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác thông quan hợp đồng. Đây là cách thức thực hiện hành vi pháp lý phổ biến nhất làm phát sinh quyền sở hữu của chủ thể.
– Thu hoa lợi, lợi tức:
Các chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản mà họ có quyền sở hữu. Đó là hoa lợi do động thực vật mang lại theo mối liên hệ nguồn gốc phụ thuộc giữa vật chủ ban đầu với hoa lợi, lợi tức thu được đó.
– Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến. Chính bởi vì có các sự kiện này mà tài sản của nhiều chủ sở hữu tạo thành vật mới:
Hiện nay, vật mới có thể là chung hay riêng của từng sở hữu chủ được xác định theo quy định của pháp luật dân sự.
– Được thừa kế tài sản:
Các chủ thể là đối tượng được thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật là chủ sở hữu tài sản được thừa kế do người chết để lại.
– Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bỏ quên, chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên:
Các chủ thể là người chiếm hữu tài sản trong các trường hợp trên đây phải đảm bảo các điều kiện cụ thể được quy định tại Bộ luật dân sự để được xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bỏ quên, chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên.
– Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu do pháp luật quy định.
– Các trường hợp khác do pháp luật quy định được xác lập quyền sở hữu.
Như vậy, pháp luật dân sự đã quy định cụ thể về các căn cứ xác lập quyền sở hữu. Cũng theo quy định trong pháp luật dân sự thì những tài sản không được xác lập dựa trên các căn cứ trên đây thì quyền sở hữu đối với tài sản của các cá nhân và các chủ thể không được pháp luật thừa nhận và bảo đảm cho việc thực hiện quyền với tư cách là chủ sở hữu của tài sản đó.