Bên cạnh vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cũng cần phải quy định rõ ai sẽ có quyền khởi kiện trước Tòa theo thủ tụng tố tụng dân sự.
Bên cạnh vấn đề
“Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn”.
Nguyên đơn có các quyền, nghĩa vụ được quy định tại khoản 1, Điều 59 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004.
Do pháp luật không quy định ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, dẫn đến trong thực tế người có quyền khởi kiện đôi khi bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.
Nguyên đơn trong vụ án về quyền sở hữu trí tuệ có thể là tác giả, chủ sở hữu đối tượng sở hữu trí tuệ hoặc một số người có quyền liên quan khác. Cụ thể như sau:
1. Đối với những tranh chấp về quyền tác giả, những người sau đây có quyền khởi kiện:
– Tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
– Tác giả không đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
– Chủ sở hữu tác phẩm không đồng thời là tác giả;
– Người được thừa kế của tác giả đồng thời là chủ sở hữu tác phẩm;
– Người có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn; tổ chức sản xuất băng âm thanh, băng hình; tổ chức phát
– Người có quyền sử dụng hợp pháp tác phẩm thông qua hợp đồng sử dụng tác phẩm;
– Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
2. Đối với tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, những người sau đây có quyền khởi kiện:
– Tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.
– Chủ sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh.
– Người sử dụng hợp pháp tên gọi xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý.
– Người được thừa kế quyền sở hữu công nghiệp.
– Người có quyền sử dụng hợp pháp các đối tượng sở hữu công nghiệp thông qua hợp đồng li-xăng.
– Người biểu diễn; tổ chức, cá nhân sản xuất băng ghi âm, ghi hình; tổ chức phát thanh, truyền hình.
– Tổ chức, cá nhân được các chủ thể trên uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
>>> Luật sư
Khi xác định nguyên đơn trong trong chấp về quyền sở hữu trí tuệ, cần lưu ý: Đối với quyền tác giả, quyền khởi kiện yêu cầu bảo hộ quyền tác giả phát sinh từ thời điểm cá nhân sáng tạo ra tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo đó dưới một hình thức vật chất nhất định. Tức là, nếu một người có ý tưởng sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, nhưng chưa thể hiện ý tưởng này dưới bất kỳ hình thức nào như: giấy, gỗ, vải… thì không thể khởi kiện yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền của mình đối với ý tưởng. Hơn nữa, trong trường hợp tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khởi kiện cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền của họ (trừ các quyền nhân thân quy định tại Điểm a, b, đ Khoản 1 Điều 751 “Bộ luật dân sự 2015”), việc khởi kiện chỉ được chấp nhận trong thời hạn tác phẩm được bảo hộ. Thời hạn đó là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Đối với quyền sở hữu công nghiệp, nếu tác giả, chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp đối tượng sở hữu công nghiệp khởi kiện tổ chức, cá nhân khác xâm phạm quyền của mình phải là người đã được cấp Văn bằng bảo hộ cho đối tượng sở hữu công nghiệp đó; và hành vi vi phạm xảy ra trong thời hạn bảo hộ.