Bảo lưu trật tự công cộng là một trong những trường hợp ảnh hưởng đến xung đột pháp luật. Một số lưu ý về bảo lưu trật tự công cộng như sau.
* Khái niệm
Bảo lưu trật tự công cộng là việc các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền không áp dụng luật nước ngoài khi vận dụng và thực hiện các quy phạm xung đột nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình.
Việc bảo lưu trật tự công cộng sẽ làm cho hiệu lực của quy phạm xung đột khi dẫn chiếu tới luật nước ngoài cần áp dụng bị hạn chế. Điều đó có nghĩa là khi áp dụng bảo lưu trật tự công cộng thì luật nước ngoài sẽ bị gạt bỏ không áp dụng, nếu việc áp dụng đó chống lại trật tự công cộng của nước mình. Vậy “trật tự công” là gì?
Trước hết cần khẳng định “trật tự công” ( public policy hoặc public ordre ) là một thuật ngữ pháp lí trừu tượng và rất phức tạp, tuy nhiên nó được sử dụng trong hệ thống pháp luật ở nhiều quốc gia. Có thể hiểu trật tự công là “ tổng thể các nguyên tắc thành văn hoặc bất thành văn trong một trật tự pháp lí, được coi là các nguyên tắc mang tính nền tảng mà các chủ thể không thể vi phạm hoặc có thỏa thuận khác, các quy phạm này có tính chất loại trừ cả pháp luật nước ngoài cũng như các văn bản có tính chất pháp lý của cơ quan công quyền nước khác”.
Việc áp dụng quy tắc “ bảo lưu trật tự công cộng” là một biện pháp bảo vệ nền tảng của chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, nếu nguyên tắc này được quy định không rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến việc điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Ở Việt Nam, bảo lưu trật tự công cộng được ghi nhận ở Khoản 4 Điều 759 “Bộ luật dân sự 2015”
“…nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, trật tự công được pháp luật Việt Nam thừa nhận là những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, ghi nhận trong hiến pháp, ngoài ra còn được ghi nhận ở một số văn bản pháp luật khác, ví dụ trong Điều 101 Luật HNGĐ hay trong một số điều ước mà Việt Nam tham hoặc gia kí kết như Điều 7 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam- Liên Bang Nga năm 1998… Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng chỉ áp dụng đối với những quy định liên quan trái với trật tự công mà không phải là phủ nhận toàn bộ hệ thống pháp luật nước ngoài.
* Nguyên nhân và hệ quả pháp lí của việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng.
– Nguyên nhân chính đặt ra vấn đề bảo lưu trật tự công cộng trong tư pháp quốc tế đó là việc sử dụng quy phạm xung đột và nội dung pháp luật các nước có quy định khác nhau về cùng một vấn đề hay chính xác là việc bảo vệ trật tự công ở mỗi quốc gia là khác nhau.
Tư pháp quốc tế điều chỉnh những quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, dẫn đến việc có thể sử dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc. khi đó, thông qua những quy phạm xung đột sẽ dẫn chiếu tới những hệ thuộc luật nội dung để điều chỉnh vụ việc. quy phạm xung đột chỉ dựa trên tính chất của quan hệ pháp lý phát sinh để lựa chọn hệ thống pháp luật phù hợp điều chỉnh quan hệ pháp luật tư pháp quốc tế, đưa ra những nguyên tắc chung để chọn luật áp dụng giưa những hệ thống pháp luật liên quan mà không trực tiếp quy định cách giải quyết vụ việc. vì vậy, việc lựa chọn này hoàn toàn khách quan, mang tính chất dẫn chiếu và điều chỉnh gián tiếp. dẫn đến việc cơ quan có thẩm quyền khi được dẫn chiễu áp dụng luật nước ngoài, hoặc các nguồn luật quốc tế nhưng lại không lường trước được nội dung của quy định đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài có quy định trái với trật tự công của quốc gia mình thì khi đó phải “ bảo lưu trật tự công cộng”.
* Hệ quả của việc áp dụng nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng.
+ Hiệu lực của quy phạm xung đột sẽ bị triệt tiêu.
Quy phạm xung đột dẫn chiếu tới hệ thống pháp luật nước ngoài, nhưng luật nước ngoài không được áp dụng bởi nó trái với trật tự công thì việc dẫn chiếu đó là vô nghĩa, hay chính là việc chọn một hệ thống pháp luật không áp dụng được trên thực tế. điều đó làm quy phạm xung đột mất hiệu lực. Ví dụ việc áp dụng quy phạm xung đột tại đoạn 1 khoản 1 Điều 103 Luật hôn nhân gia đình Việt Nam mà dẫn chiếu tới luật quốc tịch của các nước hồi giáo, pháp luật của họ quy định cho phép chế độ đa thê, thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước hồi giáo đó vì nó vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng của pháp luật Việt Nam, như vậy thì quy phạm xung đột tại khoản 1 điều 103 không có hiệu lực trong trường hợp này.
>>> Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.6568
+ Hệ quả tích cực Hệ quả tích cực của bảo lưu trật tự công là cơ quan tài phán sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài lẽ ra phải được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột mà áp dụng nội luật của mình trong tình huống pháp lý cụ thể. Nói cách khác là trong trường hợp xét thấy cần bảo vệ trật tự công quốc gia thì sẽ áp dụng ngay pháp luật của quốc gia (áp dụng pháp luật Việt Nam) để giải quyết mà không cần thông qua quy phạm xung đột.Điều này đã được quy định trong một số văn bản và theo Điều 5, Kkhoản 2, NĐ số 60/ CP ngày 06 tháng 6 năm 1997 nêu trên:
“Trong trường hợp việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các quy định tại các điều từ Đ 2 đến Đ 11 của BLDS Việt Nam và các nguyên tắc cơ bản khác của pháp luật Việt Nam thì áp dụng pháp luật Việt Nam”.
Theo Đ 5, Pháp lệnh ngày 15 tháng 12 năm 1993 về hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài:
“Nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam hoặc gây phương hại đến chủ quyền, an ninh của Việt Nam, thì áp dụng pháp luật Việt Nam”.
Ví dụ, cơ quan có thẩm quyền sẽ không áp dụng pháp luật nước ngoài quy định công nhận hôn nhân đa thê.
+ Hệ quả tiêu cực
Đây là trường hợp pháp luật nước ngoài có thể áp dụng nhưng hậu quả của việc áp dụng đó ảnh hưởng đến trật tự công quốc gia. Ví dụ việc
Ví dụ: Điều 356 khoản 6 Bộ luật tố tụng dân sự 2004 quy định: Những bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam nếu:
‘’…việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài tại Việt Nam trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”