Chủ đề xin công bố hôn nhân vô hiệu là chủ đè không còn xa lạ đối với những người theo đạo, theo đó Nguyên đơn gặp gỡ linh mục phụ trách hoặc linh mục có kiến thức chuyên môn về tòa án để xin tư vấn trước khi đệ đơn. Mẫu đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu cũng khá phổ biến.
Mục lục bài viết
1. Mẫu đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu là gì?
Mẫu đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu là mẫu đơn với các thông tin cân thiết để xin công bố hôn nhân vô hiệu, gửi cho
Mẫu đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu để xin công bố vô hiệu hôn nhân gửi lên
2. Mẫu đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu:
ĐƠN XIN CÔNG BỐ HÔN NHÂN VÔ HIỆU
Ngày ……tháng ………năm ……
Kính gửi: Tòa Án Giáo Phận ………
Tôi (nguyên đơn) là …………….
Tôi xin Tòa Án Giáo phận ……… thẩm tra và công bố vô hiệu hôn nhân mà tôi đã cử hành với ông/bà ……… ngày………. tại giáo xứ……Giáo Phận………
Tôi nghĩ rằng kết ước hôn nhân của tôi là vô hiệu, với lý do là: …………….
1- Lý lịch
Lý lịch nguyên đơn | Lý lịch bị đơn |
Họ tên: …………………………. Địa chỉ hiện nay: ………….……… Số điện thoại: ….……………………, Email……..…………………………..… Sinh tại……….……,ngày………….. □- Không Rửa tội □- Rửa tội, ngày……………..….…….. tại Giáo xứ……..Giáo phận …… Học vấn: ………………………… Chuyên môn: ………….………… Nghề nghiệp:…………..………… Cha: ……………………………… Địa chỉ:………………….……….. Điện thoại: ………..…….……….. Mẹ: ……………….…….……….. Địa chỉ:…………..……………… Điện thoại: …………………….. Số con cái đã có: – Trước hôn nhân…..… – Sau hôn nhân……… Hiện nay đang sống: □- Độc thân □- Sống như vợ chồng với: ………… từ năm……..và có số con là ………… | Họ tên: …………………………. Địa chỉ hiện nay: ………….……… Số điện thoại: ….……………………, Email……..…………………………..… Sinh tại……….……,ngày………….. □- Không Rửa tội □- Rửa tội, ngày……………..….…….. tại Giáo xứ……..Giáo phận …… Học vấn: ………………………… Chuyên môn: ………….………… Nghề nghiệp:…………..………… Cha: ……………………………… Địa chỉ:………………….……….. Điện thoại: ………..…….……….. Mẹ: ……………….…….……….. Địa chỉ:…………..……………… Điện thoại: …………………….. Số con cái đã có: – Trước hôn nhân…..… – Sau hôn nhân……… Hiện nay đang sống: □- Độc thân □- Sống như vợ chồng với: …………. từ năm…………và có số con là ……… |
2. Những thân nhân có thể làm chứng vì biết được tình trạng hôn nhân của tôi là:
1. Họ tên: ……Điện thoại…….
2. Họ tên: ……Điện thoại…….
3. Họ tên: ……Điện thoại……..
3- Những nhân chứng khác biết được tình trạng hôn nhân của tôi là:
1. Họ tên: ……Điện thoại…….
2. Họ tên: ……Điện thoại…….
3. Họ tên: ……Điện thoại……..
4- Tôi xin đính kèm
1. Bản tường trình về hôn nhân của tôi
2. Chứng thư Rửa tội, Hôn phối.
3. Giấy đăng ký kết hôn ở chính quyền địa phương (nếu có).
4. Tài liệu có giá trị làm chứng cho tiêu hôn (nếu có): văn thư, bệnh án, giấy li dị dân sự.
Cha Quản xứ:
Xác nhận ông/bà………
Thường trú/bán trú tại Giáo xứ……
……, ngày…tháng…năm…
Người xin
(Ký tên)
3. Hướng dẫn làm đơn:
– Điền các thông tin đầy đủ
– Lý lịch nguyên đón
– Lý lịch bị đơn
– Những thân nhân có thể làm chứng vì biết được tình trạng hôn nhân
– Đính kèm :
Bản tường trình về hôn nhân của tôi
Chứng thư Rửa tội, Hôn phối.
Giấy đăng ký kết hôn ở chính quyền địa phương (nếu có).
Tài liệu có giá trị làm chứng cho tiêu hôn (nếu có): văn thư, bệnh án, giấy li dị dân sự.
– kí tên
4. Tiến trình xử vô hiệu hôn nhân:
Khởi sự vụ án:
Nguyên đơn nên gặp gỡ linh mục phụ trách hoặc linh mục có kiến thức chuyên môn về tòa án để xin tư vấn trước khi đệ đơn. Vị này dựa vào những sự kiện được nguyên đơn thuật lại và qua trao đổi giúp nguyên đơn tìm ra lý do khiến hôn nhân vô hiệu. Nếu sơ khởi thấy có được lý do nào đó, nguyên đơn sẽ được hướng dẫn làm đơn thỉnh cầu lên Tòa án Giáo Phận.
Đệ thỉnh cầu đơn (libellus) lên tòa án có thẩm quyền (đ. 1501- 1506)
Đệ thỉnh cầu đơn (libellus) lên tòa án có thẩm quyền là điều rất cần thiết để việc xử án.
Quyết định chấp nhận đơn xin và triệu tập
Xác định có nền tảng để chấp đơn hay không: Chấp đơn, Bác đơn ,Thinh lặng
Sắc lệnh ở cuối đơn xin:
Điều 1676§1 quy định, khi chấp đơn, Đại Diện tư pháp phải ra sắc lệnh ở cuối chính đơn thỉnh cầu và, truyền lệnh gởi bản sao cho bảo hệ viên. Vì vậy, trong mẫu đơn thỉnh cầu do tòa án soạn thảo, nên có phần dành riêng cho tòa án ở cuối đơn xin, có ghi sẵn lệnh truyền của Đại Diện tư pháp và chỗ ký tên. Trong trường hợp, nếu là đơn do nguyên đơn tự biên soạn, thì Đại Diện tư pháp cũng có thể chấp đơn đó và viết tay lệnh này vào cuối đơn xin và ký tên.[4]
Sắc lệnh chấp đơn và triệu tập
Sau khi nhận đơn và ghi sắc lệnh ở cuối đơn truyền cho bảo hệ viên tham gia vụ án, Đại Diện tư pháp ra sắc lệnh chấp đơn và triệu tập các bên.
Sắc lệnh chấp đơn và sắc lệnh triệu tập nên được thực hiện chung với nhau trong một văn bản.
Quy định Một số chi tiết pháp lý được quy định như sau:
– Thời hạn ra sắc lệnh triệu tập là trong vòng 20 ngày, sau khi nhận đơn (đ. 1507§2).
– Cho phép bên bị đơn có ý kiến với thời hạn là 15 ngày sau khi nhận
– Nếu lệnh triệu tập bị đơn không được thực hiện hoặc không được
– Bị đơn nào từ chối không nhận giấy triệu tập, thì coi như đã được triệu tập cách hợp lệ (đ. 1510).
Triệu tập: Điều 1676§1 quy định: Sau khi nhận đơn thỉnh cầu (libellus), nếu xét thấy đơn có một nền tảng nào đó, thì Đại Diện tư pháp phải chấp đơn và, bằng một sắc lệnh đính kèm ở cuối chính đơn này, truyền gửi một bản sao để thông báo cho bảo hệ viên và, nếu đơn không được cả hai bên ký tên, thì thông báo cho bị đơn và cho người ấy thời hạn mười lăm ngày để bày tỏ ý kiến của mình về điều thỉnh cầu.
Cách thức: Ngay khi nhận đơn, thẩm phán nên liên lạc với bị đơn qua điện thoại, nếu bị đơn từ chối hay không quan tâm đến vụ án hoặc không có ý kiến gì cả thì cũng coi như đã được triệu tập. Thẩm phán không cần gởi sắc lệnh triệu tập cho bị đơn nữa. Quy tắc khoản 13 hướng dẫn: “Nếu một bên đã tuyên bố từ chối không nhận bất cứ thông tin nào liên quan đến vụ án, thì được hiểu là đã từ chối không nhận tờ sao bản án. Trong trường hợp này, có thể chỉ trao cho người ấy phần quyết định của bản án”.[5]
Cách thức lập thể thức nghi vấn: Thể thức nghi vấn phải xác định xem hôn nhân thành sự bị kháng nghị vì lý do nào hoặc vì những lý do nào (đ. 1676§4)
Xử theo thể thức ngắn gọn hơn hoặc thông thường: Sau thời hạn 15 ngày thông báo triệu tập:
+ Nếu cả hai bên hoặc một bên với sự đồng ý của bên kia và sự kiện về người và về sự việc đáp ứng với yêu cầu của điều 1683,20 thì Đại Diện tư pháp, hợp với những tiêu chuẩn của Giám Mục đề ra, ra sắc lệnh xử theo thủ tục ngắn gọn hơn. Theo nguyên tắc của điều 1685, ngài phải ấn định thể thức nghi vấn, chỉ định thẩm cứu viên và hội thẩm và triệu tập tất cả những ai phải tham dự cho một giai đoạn phải được tiến hành theo nguyên tắc điều 1686 không quá ba mươi ngày sau.
+ Nếu không đạt được những yêu cầu nói trên vụ án được xử theo thể thức thông thường.
Tóm lược tiến trình đầu tiên: nhận đơn và thiết lập thể thức nghi vấn
Nhận được đơn thỉnh cầu (libello), Đại Diện tư Pháp:[10]
Chấp đơn nếu thấy có nền tảng nào đó;
Ra sắc lệnh ở cuối đơn xin, thông báo cho bảo hệ viên và bị đơn (trừ khi bị đơn đã ký vào đơn xin);
Nếu thông báo cho bị đơn, thì cho thời hạn 15 ngày để bị đơn tỏ ý kiến về đơn xin của nguyên đơn. Sau thời hạn đó:
Lập thể thức nghi vấn, trong đó xác định một hay những lý do tiêu hôn (capo o capi di nullità);
Quyết định vụ án được xử theo thể thức thông thường hay ngắn gọn hơn.
Nếu xử theo thủ tục thông thường Đại Diện Tư pháp lập hiệp đoàn 3 thẩm phán hoặc một thẩm phán duy nhất với hai phụ thẩm. Nếu xử theo thủ tục ngắn gọn hơn thì theo các nguyên tắc riêng của điều 1685.
Giai đoạn thẩm cứu vụ án
Trong tập “Sussidio Applicativo del Motu pr. Mitis Iudex Dominus Iesus”, xuất bản bởi Tòa Thượng Thẩm Roma, tháng 1 năm 2016, có cho nhận xét về những điểm mới mẻ của Tự sắc Mitis Iudex về việc thu thập chứng cứ như sau:[11]
Giá trị chứng minh đầy đủ của lời khai
Một nhân chứng duy nhất có thể đáng tin hoàn toàn: Có thể miễn giám định y khoa:
Sắc lệnh thẩm cứu vụ án
Sau khi thông báo thể thức nghi vấn, nếu các bên không có phản đối gì, chánh án ra một sắc lệnh khởi sự thẩm cứu vụ án. Nếu có phản đối, thẩm phán để cho họ thời hạn 10 ngày để trình ý kiến (đ. 1513§3). Sau đó thẩm phán có thể sửa đổi hay điều chỉnh lại công thức nghi vấn bằng một sắc lệnh mới trước khi ra sắc lệnh thẩm cứu vụ án (Đ. 1514).
Nếu dự kiến là sẽ không có ý kiến gì thêm, thì có thể đơn giản hóa bằng việc ra sắc lệnh thẩm cứu cùng chung trong sắc lệnh thiết lập thể thức nghi vấn, được viết như sau: “Sau khi thông báo thể thức nghi vấn, nếu các bên không có phản đối gì, Tòa án sẽ tiến hành việc thẩm cứu vụ án”.
Thẩm cứu vụ án
Tòa thực hiện thẩm cứu hay thu thập chứng cứ qua việc: xem xét bản khai, tài liệu, giám định y khoa; thẩm vấn các bên, các nhân chứng do các bên đưa ra hoặc do tòa án tùy chọn (cha mẹ, bà con, bạn bè, cha sở…), hoặc lấy thêm thông tin từ các nguồn khác.
Nơi thẩm vấn: Thường là chính tại trụ sở tòa án, nhưng vẫn tùy theo thẩm phán định đoạt (đ. 1158).
Lời thề: Thẩm phán tùy theo sự khôn ngoan của mình để bắt người được thẩm vấn thề nói sự thật. Tuy nhiên trong những trường hợp liên quan đến công ích, thẩm phán phải yêu cầu các bên thề (đ. 1532), và nếu họ không chịu thề thì cũng phải nghe người ấy cung khai (đ. 1562§2). Lời thề, phải được ghi nguyên văn trên giấy tờ (đ. 1567§1).
Thẩm vấn riêng biệt từng người một: Việc thẩm vấn được thực hiện riêng biệt, không công khai (đ. 1560§1). Đôi khi, nếu trong nhân chứng có bất đồng với nhau hay với một bên về vấn đề quan trọng, thẩm phán có thể cho những người ấy gặp nhau để đối chất nhưng phải làm hết sức để tránh bất hòa và gương xấu (đ. 1560).
Có sự hiện diện và ghi chép của công chứng viên: Điều 1567§1 quy định chung cho các loại tố tụng là buộc câu trả lời thẩm vấn phải được công chứng viên ghi ngay trên giấy tờ và phải ghi nguyên văn những lời nói của các nhân chứng, ít nhất đối với những vấn đề trực tiếp liên quan đến đối tượng vụ án.
Tuy nhiên đối với vụ án hôn phối, vì bản chất khác biệt, các bên hay nhân chứng có thể miễn ký tên vào bản thẩm vấn.
Thông thường, các cuộc thẩm vấn được ghi trực tiếp (tốc ký bằng tay) trên giấy hay được thu nhận qua máy ghi âm hay điện thoại, phải được đánh máy vi tính sau đó và in thành văn bản. Nếu muốn người trả lời thẩm vấn ký tên vào văn bản đó thì phải gọi họ đến văn phòng tòa án hoặc gởi văn bản đến cho họ ký và gởi trả lại cho tòa án. Công việc nhiều khi có bất tiện và kéo dài thời gian. Vì vậy, nếu có thể được thì để họ ký, nếu thấy bất tiện thì có thể miễn ký (đ. 1567§2). Tuy nhiên chữ ký của thẩm vấn viên và công chứng viên (lục sự) thì không thể thiếu.
Sắc lệnh kết thúc thẩm cứu và công bố án từ
Sau khi thấy việc thu thập chứng cứ đã đủ thì ra sắc lệnh kết thúc thẩm cứu (đ. 1599) và công bố án từ.
– Kết thúc thẩm cứu: Sau sắc lệnh kết thúc thẩm cứu, việc lấy thêm chứng cớ là không được phép, trừ khi có nguy cơ gian lận hoặc hối lộ, man khai trầm trọng, tài liệu giả dối… khiến bản án sẽ bất công (đ. 1600).
Các thẩm phán, vì vậy, khi họp nghị án không được yêu cầu dừng nghị án để lấy thêm chứng cứ, ngoại trừ có nguy cơ bản án bất công. Thẩm cứu viên, vì lẽ đó, cũng cần điều tra kỹ lưỡng cho tới khi thấy việc thu thập chứng cứ đã đủ mới ra sắc lệnh kết thúc thẩm cứu.
– Công bố án từ: Theo quy định chung của tố tụng, sau khi kết thúc việc thẩm cứu, thẩm phán phải ấn định một thời gian để các bên trình bày các lời bào chữa hay nhận xét (đ. 1601).
Riêng về tố tụng hôn nhân, trong thủ tục xử ngắn gọn hơn, có quy định thời hạn 15 ngày. Thời gian này cũng thích hợp cho lối xử theo thủ tục thông thường.
Nên ban hành hai sắc lệnh kết thúc thẩm cứu và công bố án từ trong cùng một văn bản.
Nghị án và tuyên án:
Chuẩn bị nghị án: gởi hồ sơ đến các vị hữu trách
Sau khi kết thúc thẩm cứu, cùng trong ý nghĩa công bố án từ, bản sao toàn bộ hồ sơ vụ án phải được gởi đến:
– Các thẩm phán để xem xét trước và viết bản kết luận. Bản kết luận phải có trưng dẫn những lý do về pháp lý cũng như sự kiện (đ. 1609§2).
– Bảo hệ viên để viết bản ý kiến chống lại sự hủy bỏ dây hôn phối.
– Người bảo hộ hay luật sư viết lời biện hộ nếu có.
Hồ sơ được gởi đi trước khi nghị án ít là 15 ngày, theo như thời hạn thẩm phán ấn định cho việc viết các ý kiến và lời biện hộ. Thời hạn này có thể linh động tùy theo ấn định của thẩm phán.
Họp nghị án (đ. 1609)
– Soạn thảo và ban hành bản án
– Kết luận Gồm các nội dung:
Trả lời “Xác nhận”(Affirmative) hoặc “Phủ nhận” (Negative) cho nghi vấn tiêu hôn.
Chỉ ra khả năng và cách thức kháng án.
Chỉ ra thời gian bản án bắt đầu có hiệu lực thi hành hoặc cấm tái hôn: những người mà hôn nhân của họ được tuyên bố là bất thành có thể tái hôn, trừ khi lệnh cấm tái hôn được kèm theo chính bản án hay trừ khi Đấng Bản Quyền địa phương ra lệnh cấm tái hôn (đ. 1682§1).
Nhắc nhở cho các bên biết những nghĩa vụ luân lý hay cả những nghĩa vụ dân sự mà bên này phải có đối với bên kia và đối với con cái họ trong việc cấp dưỡng và giáo dục (đ.1691§1), nếu có.
Công bố bản án:
– Công bố: Bản án phải được công bố sớm hết sức, phải chỉ rõ những cách thức có thể được dùng để kháng cáo, và chỉ có hiệu lực sau khi được công bố (đ. 1614)..
– Ghi chú vào sổ Rửa Tội và Hôn Phối: Điều 1682§2 quy định: Ngay sau khi bản án đã có hiệu lực thi hành, vị Đại Diện Tư pháp phải thông báo bản án đó cho Đấng Bản Quyền địa phương nơi hôn nhân đã được cử hành. Vị này phải quan tâm ghi chú việc công bố hôn nhân không thành và những lệnh cấm kèm theo, nếu có, vào sổ hôn phối và sổ rửa tội, càng sớm càng tốt.
Trên đay là thông tin cần thiết về mẫu đơn xin công bố hôn nhân vô hiệu, các thủ tục và thông tin liên quan.