Tháng 1/2013 tôi có bán chiếc xe cho ông H với giá 4 triệu, thỏa thuận trả tiền trong vòng 3 tháng. Nay người đó không trả thì tôi phải làm thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Tháng 1/2013 tôi có bán chiếc xe cho ông H với giá 4 triệu, thỏa thuận trả tiền trong vòng 3 tháng, tháng đầu trả 1 triệu, tháng tiếp theo trả 2 triệu và tháng tiếp theo nữa trả 1 triệu. Tuy nhiên đến nay tôi chỉ nhận được 1 triệu, trong khi đó ông H đã đem xe tôi đi bán cho người khác.
Tôi muốn hỏi là tôi làm đơn gửi cơ quan có thẩm quyền thì có thể đòi được chiếc xe về không? Thời gian cơ quan có thẩm quyền giải quyết phải giải quyết cho tôi chậm nhất là bao lâu? (tôi đã gửi đơn khoảng 3 tháng nay nhưng chưa được giải quyết,trong trường hợp đó tôi phải làm gì?)
Mong sớm nhận được sự giúp đỡ của luật sư, tôi chân thành cảm ơn !
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Về giao dịch giữa bạn và H
Theo thông tin bạn cung cấp, có thể thấy giữa bạn và H đã có một
Điều 428 quy định:
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
Về hình thức của hợp đồng, điều 401 “Bộ luật dân sự 2015” quy định
“1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, phải đăng kí hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”.
Tại tiểu mục 3.1.7 – Điều 7 Thông tư 36/2010/TT-BCA có nêu:
Giấy bán, cho, tặng xe của cá nhân phải có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn đối với chữ kí của người bán, cho, tặng xe hoặc có xác nhận của cơ quan, đơn vị công tác.
Như vậy, trong trường hợp này của bạn, việc mua bán xe mô tô giữa hai bên phải được lập thành văn bản, có chứng thực của UBND hoặc xác nhận của cơ quan, đơn vị nơi bạn công tác.
Như vậy hình thức của hợp đồng giữa bạn và H đã không tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên hiện nay không có văn bản nào quy định rõ rằng, nếu không thực hiện việc chứng thực nêu trên thì hợp đồng sẽ vô hiệu. Việc không có chứng thực của UBND chỉ là khó khăn, thiếu sót trong quá trình đăng kí sang tên chiếc xe mô tô, do trong thành phần hồ sơ có bao gồm giấy tờ mua bán có chứng thực. Như vậy, hợp đồng giữa bạn và H vẫn có hiệu lực, từ thời điểm giao kết đã làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ đối với các bên.
Khoản 2 điều 305 và điều 438 “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
“1. Bên mua phải trả đủ tiền vào thời điểm và tại địa điểm đã thỏa thuận;
2. Bên mua phải trả lãi đối với số tiền chậm trả kể từ ngày chậm trả, theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán”.
Giữa bạn và H đã có thỏa thuận về cách thức và thời hạn trả tiền, tuy nhiên H đã không thực hiện theo đúng thỏa thuận, quyền và lợi ích hợp pháp của bạn đã bị xâm phạm, chính vì vậy bên bán là bạn có quyền khởi kiện ra Tòa án yêu cầu H trả đủ tiền mua xe đã thỏa thuận, và phải trả lãi quá hạn đối với khoản tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
>>> Luật sư
2. Về giao dịch giữa H và người thứ 3
Theo thông tin bạn cung cấp, H chưa trả đủ số tiền theo thỏa thuận nhưng đã bán xe mô tô của bạn cho một người khác.
Điều 128 “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Điều 197, điều 198 “Bộ luật dân sự 2015” quy định:
Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.
Người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của pháp luật.
Trong giao dịch giữa bạn và H, do H chưa thực hiện việc đăng kí quyền sở hữu chiếc xe mô tô, nên bạn vẫn được xác định là chủ sở hữu của chiếc xe. Việc H bán chiếc xe cho người khác là theo ý chí của H, không có sự đồng ý của bạn, chính vì vậy đã vi phạm quy định của “Bộ luật dân sự 2015” về nghĩa vụ tôn trọng quyền của chủ sở hữu, giao dịch giữa H và người thức 3 có nội dung và mục đích vi phạm điều cấm, nên sẽ không có giá trị pháp lý, H sẽ phải trả lại tiền đã nhận, người thứ ba phải trả lại chiếc xe mô tô theo đúng quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu.
-
Về việc thực hiện quyền khởi kiện và thời hạn tố tụng
Theo khoản 3 điều 25 BLTTDS, tranh chấp giữa bạn và H được xác định là tranh chấp từ hợp đồng, thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự của tòa án. Để thực hiện quyền khởi kiện của mình, bạn cần gửi đơn khởi kiện đến Tòa án cấp quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi H cư trú hoặc nơi hợp đồng được thực hiện. Đơn khởi kiện phải được làm theo mẫu (bạn có thể liên hệ Tòa án để lấy mẫu này), gửi kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu:
-
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp (giấy mua bán, giấy hẹn trả tiền, biên lai nhận tiền,….)
-
Chứng minh thư nhân dân, hộ khẩu gia đình (có chứng thực hoặc công chứng)
-
Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện (ghi rõ số lượng bản chính, bản sao);
Hồ sơ khởi kiện có thể nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Tòa án ra thông báo yêu cầu bạn nộp tiền tạm ứng án phí, sau đó sẽ giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Theo điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thời hạn giải quyết vụ việc của bạn như sau:
-
Thời hạn chuẩn bị xét xử: 4 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì có thể gia hạn không quá 2 tháng.
-
Thời hạn mở phiên tòa: 1 tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử
Bạn cần kiểm tra lại việc khởi kiện của mình đã thực hiện đúng như các điều luật đã trích dẫn ở trên hay chưa, nếu đã thực hiện đầy đủ thì bạn cần đợi Tòa án giải quyết, bởi theo thông tin bạn cung cấp, từ khi nộp đơn đến thời điểm hiện tại mới là 3 tháng, chưa hết thời hạn chuẩn bị xét xử luật định.