Hiện nay, vấn nạn lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn xả ra rất nhiều. Vậy người lừa đảo chiếm đoạt tài sản, sau đó bỏ trốn thì sẽ bị xử lý như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Thế nào là lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn?
Người nào đã thực hiện hành vi phạm tội (có đủ yếu tố cấu thành hành vi phạm tội) mà bỏ trốn thì hành vi bỏ trốn này là trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, hành vi bỏ trốn không phải là dấu hiệu của tội phạm mà chỉ gây khó khăn cho việc xử lý vụ án.
Trường hợp này khác với trường hợp bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản, bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, là dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, tức là nếu chưa bị coi là “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” thì chưa cấu thành tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Như vậy bỏ trốn sau khi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội đã thực hiện xong hành vi phạm tội của mình rồi mới bỏ trốn để nhằm trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật.
Tham khảo quy định về: Xử lý với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
2. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn bị xử lý như thế nào?
2.1. Khung hình phạt cơ bản:
Căn cứ theo quy định tại Điều 174
+ Trường hợp 1: Tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng;
+ Trường hợp 2: Tài sản dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của
2.2. Khung hình phạt thứ hai:
Người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn thì sẽ bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm đối với một trong các trường hợp:
+ Phạm tội có tổ chức;
+ Tội phạm có tính chất chuyên nghiệp;
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
+ Tái phạm nguy hiểm;
+ Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
2.3. Khung hình phạt thứ ba:
Người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn thì sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm đối với một trong các trường hợp:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
+ Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
2.4. Khung hình phạt thứ tư:
Người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản rồi bỏ trốn thì sẽ bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân đối với một trong các trường hợp:
+ Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
+ Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài ra, Bộ luật Hình sự hiện hành còn quy định các hình phạt bổ sung sau đây:
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Ngoài ra, trường hợp hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 15 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.
Theo đó, người nào dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản sẽ bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng kèm các hình thức xử phạt bổ sung:
+ Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính;
+ Trục xuất người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính.
Như vậy, người nào có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự với mức phạt cao nhất là tù chung thân.
3. Cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Căn cứ theo quy định tại Điều 174
– Xét về mặt chủ thể: Chủ thể của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên, có năng lực trách nhiệm hình sự.
– Xét về mặt khách thể: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.
– Xét về mặt khách quan:
+ Về hành vi phạm tội:
Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản:
– Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản.
– Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình.
Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm ở mục đích của hành vi. Người phạm tội dùng các thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhầm tưởng, tin vào các thông tin không đúng sự thật đó và tự nguyện chuyển giao tài sản cho người phạm tội. Đây là dấu hiệu quan trọng để định tội danh này, phân biệt với các tội danh khác có đặc điểm về hành vi tương đương.
+ Dấu hiệu khác: Giá trị của tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên thì người thực hiện hành vi mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu tài sản chiếm đoạt dưới hai triệu đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bi kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
– Xét về mặt chủ quan: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác do mình thực hiện hành vi là gian dối, trái pháp luật. Đồng thời người phạm tội thấy trước được hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái pháp luật nhưng họ mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
4. Bỏ trốn sau khi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có phải tình tiết tăng nặng không?
Căn cứ theo Điều 52
Theo
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình;
– Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.