Khái niệm, đặc điểm của các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt trong tố tụng hình sự có những đặc trưng gì?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Để làm rõ được khái niệm biện pháp ĐTTTĐB thì cần hiểu được yếu tố đặc biệt trong khái niệm này. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Đặc biệt là tính từ có nghĩa là khác hẳn những trường hợp thông thường về tính chất, chức năng hoặc mức độ” [28, tr. 301]. Tính đặc biệt trong biện pháp ĐTTTĐB là những yếu tố khác hẳn về tính chất so với các biện pháp điều tra khác trong BLTTHS.
Điểm đặc trưng cơ bản của biện pháp ĐTTTĐB là yếu tố bí mật bao gồm bí mật về phương pháp tiến hành, bí mật về đối tượng áp dụng, bí mật về các thông tin, tài liệu không liên quan… nhưng lại được công khai về chứng cứ phục vụ công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản giữa biện pháp ĐTTTĐB với biện pháp điều tra tố tụng thông thường hay biện pháp điều tra trinh sát.
Như vậy, yếu tố đặc biệt của biện pháp ĐTTTĐB là yếu tố “bí mật” – dấu hiệu đặc trưng của biện pháp ĐTTTĐB[2,tr.48]. Những biện pháp này đều được tiến hành điều tra một cách bí mật, vừa để đảm bảo bí mật trong quá trình điều tra, vừa giúp quá trình thu thập chứng cứ diễn ra một cách khách quan, đối phó với những tội phạm có tính chất nghiêm trọng, thủ đoạn tinh vi.
Việc quy định biện pháp điều tra tố tụng đặc góp phần thực thi những cam kết về luật hóa biện pháp ĐTTTĐB trong các Công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia mà tiêu biểu nhất là Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia: Điều 20 của Công ước này quy định về các kỹ thuật điều tra đặc biệt. Theo Điều 20 Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, biện pháp điều tra đặc biệt được khuyến nghị gồm một nhóm các biện pháp điều tra khác nhau, như: vận chuyển có kiểm soát, các hình thức giám sát, hoạt động sử dụng lực lượng bí mật. Đồng thời, tại một số điều, Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia cũng quy định thêm về các vấn đề liên quan xung quanh yêu cầu về việc áp dụng các kỹ thuật điều tra đặc biệt như Điều 24 về bảo vệ nhân chứng, Điều 25 về hỗ trợ và bảo vệ nạn nhân…
Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng: Điều 50 của Công ước này quy định về kỹ thuật điều tra đặc biệt. Theo đó, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng cũng đòi hỏi mọi quốc gia phải áp dụng các biện pháp cần thiết, đủ mạnh và biện pháp này cũng là một biện pháp đặc biệt. Các biện pháp điều tra đặc biệt được Công ước nhấn mạnh về tầm quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống các tội phạm, đặc biệt là các tội phạm ma túy, các tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và tội phạm tham nhũng. Công ước cũng nêu ra các biện pháp điều tra đặc biệt bao gồm kiểm soát vận chuyển (thường áp dụng trong các trường hợp qua biên giới và trong các vụ án ma túy); giám sát, theo dõi điện tử (theo dõi điện thoại, thư điện tử…); giám sát, theo dõi đối tượng (theo dõi đối tượng tình nghi); hoạt động tình báo, hoạt động “chìm”; kiểm tra liêm chính; giám sát giao dịch tài chính và một số biện pháp khác. Việt Nam đã tham gia nhiều Công ước của Liên hợp quốc và đã cam kết luật hóa biện pháp điều tra đặc biệt này, cho nên việc đưa một chương quy định biện pháp điều tra đặc biệt trong BLTTHS là một đời hỏi tất yếu của việc thực hiện các cam kết quốc tế.
Đối với một số loại tội phạm nhất định, việc áp dụng các biện pháp này nhằm bí mật thu thập chứng cứ và đây sẽ là nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh tội phạm trực tiếp [44], hiệu quả nhất. Thông qua các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong các cơ quan tiến hành tố tụng có thể ghi lại nội dung của các cuộc trò chuyện, trao đổi, mặc cả của các đối tượng mà Cơ quan điều tra đang nghi vấn; Ghi lại hình ảnh của các đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội; Nghe và ghi lại lời nói của đối tượng nghi vấn hoặc đối tượng đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc thu thập dữ liệu điện tử. Biện pháp ĐTTTĐB tạo điều kiện cho CQĐT chủ động thu thập chứng cứ, xác định đối tượng tình nghi phạm tội trong quá trình điều tra các vụ án phức tạp, có tổ chức, đặc biệt nghiêm trọng, góp phần đấu tranh chống tội phạm, mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm.
Vì được coi là biện pháp ĐTTTĐB nên không phải các biện pháp này được áp dụng đối với mọi tội phạm. ĐTTTĐB chỉ được áp dụng đối với các loại tội phạm quy định tại Điều 224 BLTTHS năm 2015 bao gồm: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội khủng bố, tội rửa tiền; các tội phạm về ma túy; tội phạm về tham nhũng. Bên cạnh các loại tội phạm kể trên, biện pháp ĐTTTĐB còn có thể được sử dụng để điều tra bất cứ tội phạm nào khác được thực hiện có tổ chức thuộc loại tội đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài các trường hợp nêu trên, biện pháp ĐTTTĐB không được phép áp dụng như là biện pháp điều tra thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra. Việc quy định về giới hạn các trường hợp được áp dụng biện pháp ĐTTTĐB xuất phát từ lý do để tránh sử dụng tràn lan và đảm bảo hiệu quả cao trong việc áp dụng biện pháp ĐTTTĐB.
Tác giả Phạm Quang Phúc cho rằng: “biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là biện pháp trinh sát có tính chất đặc thù, rõ nét nhất đó là tính chất bí mật”. Khái niệm này đồng nhất biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt với biện pháp trinh sát và nhấn mạnh đặc điểm “bí mật” khi tiến hành để phân biệt với các hoạt động điều tra khác mang tính công khai.
Căn cứ vào quy định của pháp luật TTHS, kết hợp với lý luận và thực tiễn tiến hành các hoạt động điều tra, tác giả Phan Văn Chánh đưa ra khái niệm: “Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là một trong các biện pháp điều tra tố tụng được các cơ quan chuyên trách trong lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân dân tiến hành sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra bí mật do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án hình sự” [3, tr.4]. Trong khái niệm của mình, tác giả đã đề cập nhiều vấn đề của biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như đặc điểm, chủ thể tiến hành, thời điểm tiến hành, mục đích.
Điểm giống nhau giữa hai khái niệm đó là đều thừa nhận đặc điểm bí mật của biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả nhận thấy khái niệm thứ hai đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên khái niệm trên cần diễn đạt cho hoàn thiện, có thể hiểu: các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là một trong các biện pháp điều tra do pháp luật quy định thể hiện hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ một cách bí mật do những người có thẩm quyền tiến hành, áp dụng sau khi khởi tố vụ án nhằm phục vụ quá trình điều tra vụ án hình sự về các tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền, và tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong BLTTHS để thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm.
2. Đặc điểm của biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt:
Biện pháp điều tra đặc biệt là hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra các vụ án do Cơ quan điều tra áp dụng thông qua các hoạt động cụ thể. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có những đặc điểm khác biệt các biện pháp điều tra thông thường:
Thứ nhất, Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là hình thức thu thập chứng cứ một cách bí mật phục vụ cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà trực tiếp là thông qua hoạt động điều tra tội phạm, hoạt động này chỉ được áp dụng sau khi đã khởi tố vụ án. Đây là đặc điểm mang tính chất khác biệt căn bản của biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt so với các biện pháp điều tra thông thường khác như: khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra… Biện pháp điều tra đặc biệt thể hiện tính đặc biệt của chúng ở khía cạnh, khi đang tiến hành, biện pháp này bắt buộc phải bí mật, chủ thể bị áp dụng và những người khác (ngoại trừ cơ quan điều tra áp dụng và Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát) không thể biết được và không được phép biết.
Trong BLTTHS một số nước quy định biện pháp này là biện pháp điều tra bí mật như Đức, Pháp, Nga… (Khoản 1 Điều 186 BLTTHS LB Nga quy định các biện pháp bao gồm giám sát, ghi âm các cuộc trao đổi điện thoại, thu thập thông tin từ các cuộc liên lạc giữa những người thuê bao và các thiết bị thuê bao thông qua việc yêu cầu cơ quan, tổ chức dịch vụ thông tin liên lạc cung cấp thông tin; Điều 706 80; Điều 706-73 và 706-81, 706-82; Điều 706-95, Điều 706-96 đến 706- 101, 100 BLTTHS Pháp: bao gồm theo dõi bí mật; xâm nhập nhà riêng, chặn đường liên lạc viễn thông; cài đặt thiết bị ghi âm và ghi hình tại một số địa điểm hoặc trong một số phương tiện đi lại, truy cập dữ liệu tin học; Điều 110c và các điều 100, 100a, 100, 100c, 100 e, 100F, 100g, 100h, 100i BLTTHS Đức: bao gồm kiểm tra giấy tờ; kiểm soát giao thông; xâm nhập nhà riêng, nghe điện thoại hoặc thiết bị viễn thông bí mật; ghi âm bí mật; ghi hình bí mật; sử dụng thiết bị kỹ thuật phục vụ việc giám sát đối tượng, điều tra trinh sát).
Trước đây các biện pháp nghiệp vụ trinh sát (hoạt động nghiệp vụ bí mật) của lực lượng công an vẫn thường được tiến hành trong quá trình trước khi khởi tố, điều tra các vụ án hình sự hoặc trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Trong đó
Thứ hai, về ý nghĩa pháp lý, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là biện pháp thu thập chứng cứ được BLTTHS quy định, kết quả điều tra có thể sử dụng làm chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự. Đây chính là đặc điểm để phân biệt biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt với các biện pháp nghiệp vụ trinh sát của lực lượng công an đã tiến hành trước kia. Biện pháp nghiệp vụ trinh sát của lực lượng công an chỉ được quy định trong các văn bản nghiệp vụ nội bộ của ngành Công an và vẫn thường được tiến hành trong công tác đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, thu thập thông tin về các đối tượng tình nghi, đối tượng nghi thực hiện hành vi phạm tội, biện pháp này được thực hiện một cách bí mật với các nghiệp vụ như: ghi âm, ghi hình bí mật, theo dõi bí mật…
Tuy nhiên, một vấn đề của biện pháp nghiệp vụ trinh sát đó là biện pháp này chỉ có giá trị thu thập thông tin dùng cho lực lượng công an để quản lý về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, theo dõi đối tượng tình nghi phạm tội mà không có giá trị cung cấp các chứng cứ cần thiết cho hoạt động tố tụng để chứng minh vụ án hình sự, hoặc nếu có thì phải trải qua quá trình chuyển hóa chứng cứ. Tuy nhiên, khi đã luật hóa – quy định trong BLTTHS những biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì biện pháp này là một biện pháp điều tra hợp pháp, được BLTTHS quy định. Hay nói cách khác, giá trị các tài liệu, chứng cứ mà hoạt động này thu thập được sẽ được sử dụng để làm chứng cứ chứng minh vụ án hình sự.
Thứ ba, về đối tượng áp dụng, do tính “đặc biệt” các biện pháp biện pháp này chỉ được triển khai khi điều tra một số loại tội phạm đặc biệt. Hơn nữa mỗi biện pháp điều tra đặc biệt phải được áp dụng phù hợp, có hiệu quả trong từng vụ án hình sự cụ thể. Điều này góp phần tránh tình trạng áp dụng tràn lan, không đúng với quy định của BLTTHS năm 2015 hoặc lạm dụng áp dụng xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như tên gọi của chúng đó là mang tính chất “đặc biệt”, một trong những tính đặc biệt của biện pháp này thể hiện ở loại tội phạm mà biện pháp này được phép áp dụng, theo quy định chỉ có các tội phạm về xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm tham nhũng, tội khủng bố, tội ma túy và tội rửa tiền cũng như những loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác.
Như vậy, đặc điểm khác biệt ở đây chính là nếu như các biện pháp điều tra thông thường khác có thể áp dụng trong điều tra mọi loại tội phạm, mà mục đích để thu thập chứng cứ thì biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ áp dụng đối với các loại tội phạm mang tính chất nguy hiểm, phức tạp, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ, của trật tự, an toàn xã hội và nhu cầu cần phải có những biện pháp thu thập chứng cứ với đặc thù riêng để đối phó với tính phức tạp, kín kẽ, tinh vi, xảo quyệt của tội phạm.
Thứ tư, về chủ thể tiến hành, chủ thể thực hiện các biện pháp điều tra đặc biệt là Cơ quan điều tra. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát, đánh giá, phê chuẩn có hay không việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt để các biện pháp điều tra đặc biệt được thực hiện theo đúng trình tự, quy định của BLTTHS. Đây là đặc điểm thể hiện tính chất chặt chẽ của biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Bởi lẽ, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có khả năng cao tác động tới các quyền tự do, dân chủ của con người như: quyền bí mật đời tư, quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở…
Chính vì vậy, nếu quy định thủ tục áp dụng không chặt chẽ, không có sự kiểm tra giám sát chặt chẽ sẽ dẫn đến những lạm dụng, sử dụng thông tin tài liệu thu thập được vì những mục đích không phù hợp. Việc BLTTHS quy định về biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt rất chặt chẽ như vậy là phù hợp trong bối cảnh đây mới là lần đầu tiên các biện pháp này được luật hóa.
Thứ năm, về phạm vi áp dụng, thông tin, tài liệu thu thập được từ biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được sử dụng vào việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, không dùng vào mục đích khác. Việc lạm dụng sử dụng các thông tin thu thập được vào các mục đích không phù hợp, xâm phạm bí mật đời tư của công dân là điều đáng lo ngại nhất khi áp dụng các biện pháp này. Do đó, BLTTHS Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới đều quy định rằng nếu sau khi có căn cứ cho rằng không sử dụng hoặc hết thời hạn sử dụng các tài liệu, thông tin thu thập được từ các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì cần phải tiêu hủy, có sự chứng kiến của các lực lượng kiểm soát và phải lập thành biên bản.
Thứ sáu, các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có nguy cơ xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân, quyền của người bị buộc tội rất lớn do tại giai đoạn điều tra yếu tố tranh tụng chưa thực sự hiện hữu, nguy cơ xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm lớn hơn nhiều so với các giai đoạn khác. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp này đòi hỏi một trình tự thủ tục chặt chẽ, nghiêm ngặt và cần thiết phải có sự kiểm sát từ VKSND một cách liên tục và thường xuyên.