Hiện nay, trong quan hệ đặt cọc, khi xảy ra tranh chấp, người có thiệt hại thường yêu cầu tòa án giải quyết hậu quả pháp lý của việc hợp đồng vô hiệu. Vậy hợp đồng đặt cọc vô hiệu thì vấn đề bồi thường sẽ được thực hiện như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Hợp đồng đặt cọc vô hiệu thì bồi thường như thế nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu. Cụ thể như sau:
– Giao dịch dân sự vô hiệu sẽ không làm phát sinh, không làm thay đổi phải không làm chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên được tính kể từ thời điểm giao dịch đó được xác lập trên thực tế;
– Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên sẽ khôi phục lại tình trạng ban đầu, các bên sẽ hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Trong trường hợp các bên không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì cần phải chị giá thành tiền để hoàn trả cho bên còn lại trong một khoảng thời gian hợp lý;
– Bên ngay tình theo quy định của pháp luật trong việc thu hoa lợi và lợi tức sẽ không cần phải hoàn trả lại hoa lợi và lợi tức đó;
– Bên nào có lỗi gây ra thiệt hại thì sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật;
– Việc giải quyết hậu quả của các giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân sẽ được thực hiện theo quy định của bộ luật dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Theo đó thì có thể nói, khi xuất hiện một trong những căn cứ để tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu thì hoàn toàn có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu căn cứ theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật dân sự năm 2015. Và trong trường hợp hợp đồng đặt cọc vô hiệu theo quy định của pháp luật mọi cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án tuyên bố hợp đồng đặt cọc vô hiệu thì các bên sẽ phải có nghĩa vụ hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, điều này đồng nghĩa với việc bên nhận đặt cọc rào cần phải hoàn trả lại số tiền đặt cọc mà các bên đã thỏa thuận trước đó. Đồng thời theo điều luật phân tích nêu trên, khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu như các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án sẽ phải có trách nhiệm xác định mức độ thiệt hại trên thực tế. Về nguyên tắc thì có thể nói, một bên chỉ cần phải bồi thường cho bên còn lại khi có thiệt hại thực tế xảy ra, không có thiệt hại thì sẽ không đặt ra trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này. Trong quá trình bồi thường khi hợp đồng vô hiệu thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải xác định lỗi của các bên trong hợp đồng đó. Về nguyên tắc thì có thể nói, người nào có lỗi gây ra thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong đó, có thể tồn tại lỗi của một bên hoặc lỗi của các bên trong các giao dịch dân sự. Trong trường hợp tồn tại lỗi của các bên làm cho hợp đồng đặt cọc vô hiệu thì cần phải xác định mức độ lỗi của các bên để có thể thấy được thiệt hại cụ thể xảy ra để từ đó quy trách nhiệm bồi thường tương ứng cho lỗi của mỗi bên.
2. Hợp đồng đặt cọc vô hiệu trong trường hợp nào?
Căn cứ theo quy định tại Điều 328 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về việc đặt cọc trong hợp đồng dân sự. Theo đó, đặt cọc được xem là việc bên đặt cọc giao cho bên nhận đặt cọc một khoản tiền hoặc vật có giá trị trong một bản thời hạn nhất định để đảm bảo cho quá trình giao kết hợp đồng phù hợp với sự thỏa thuận của các bên hoặc thực hiện hợp đồng trên thực tế. Trong trường hợp hợp đồng đặt cọc được giao kết và thực hiện trên thực tế phù hợp với sự thỏa thuận ban đầu thì tài sản đặt cọc sẽ được trả lại cho bên đặt cọc hoặc tài sản được đặt cọc đó sẽ được dùng để khấu trừ trong quá trình thực hiện nghĩa vụ trả tiền của bên đặt cọc, nếu Như trong trường hợp bên đặt cọc từ chối thực hiện hợp đồng hoặc từ chối giao kết hợp đồng vi phạm thỏa thuận ban đầu thì tài sản đặt cọc sẽ thuộc về bên nhận đặt cọc, nếu như bên nhận đặt cọc từ chối việc thực hiện hợp đồng hoặc từ chối hoạt động giao kết hợp đồng vi phạm sự thỏa thuận ban đầu thì sẽ phải trả lại cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền khác tương đương với giá trị tài sản đặt cọc, chưa trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Theo đó thì có thể nói, việc đặt cọc được xem là việc một bên giao cho bên còn lại một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị trong một khoảng thời gian nhất định để đảm bảo cho hoạt động giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. Theo quy định của pháp luật, hoạt động đặt cọc sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ của bên đặt cọc và bên nhận đặt cọc, vì thế có thể hiểu hợp đồng đặt cọc là một hình thức của hợp đồng dân sự. Căn cứ theo quy định tại Điều 407 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về hợp đồng vô hiệu. Theo đó, hợp đồng đặt cọc sẽ bị vô hiệu nếu thuộc một trong những trường hợp cơ bản sau đây:
– Hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu do nội dung của hợp đồng đặt cọc đó vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội căn cứ theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc bị vô hiệu do giả tạo căn cứ theo quy định tại Điều 124 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc vô hiệu do những đối tượng được xác định là người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi, những đối tượng được xác định là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập và thực hiện trái quy định của pháp luật căn cứ theo quy định tại Điều 125 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc vô hiệu do bị nhầm lẫn căn cứ theo quy định tại Điều 126 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc vô hiệu do bị đe dọa hoặc cưỡng ép, vô hiệu do bị lừa dối trái quy định của pháp luật vi phạm ý chí của các bên giao kết hợp đồng căn cứ theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc vô hiệu do người xác lập hợp đồng đó không có khả năng nhận thức và không có khả năng điều khiển hành vi căn cứ theo quy định tại Điều 128 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức căn cứ theo quy định tại Điều 129 của Bộ luật dân sự năm 2015;
– Hợp đồng đặt cọc vô hiệu do đối tượng của hợp đồng đặt cọc đó không thể thực hiện được trên thực tế căn cứ theo quy định tại Điều 408 của Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng đặt cọc:
Căn cứ theo quy định tại Điều 407 của Bộ luật dân sự năm 2015 theo như phân tích nêu trên thì giao dịch dân sự vô hiệu, trong đó có hợp đồng đặt cọc khi vi phạm các quy định từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật dân sự năm 2015. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 122 của Bộ luật dân sự năm 2015 có quy định về giao dịch dân sự vô hiệu. Theo đó thì có thể thấy, điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự trong đó có hợp đồng đặt cọc cần phải được đáp ứng đầy đủ theo quy định của pháp luật. Giao dịch dân sự sẽ có hiệu lực khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện như sau:
– Chủ thể thực hiện giao dịch phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập trên thực tế;
– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự phải tự nguyện và xuất phát từ ý chí của bản thân mà không bị lừa dối hoặc không bị ép buộc dưới bất kỳ hình thức nào;
– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội;
– Hình thức của giao dịch dân sự cũng được xem là một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đó trong trường hợp pháp luật có quy định.
Theo đó thì có thể thấy, hợp đồng đặt cọc sẽ được xem là có hiệu lực khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện theo như phân tích nêu trên.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015.