Trên thực tế ngoài việc giao kết hợp đồng lao động còn tồn tại một số loại hợp đồng khác tương tự như hợp đồng cộng tác viên. Sau đây là những nội dung cơ bản về hợp đồng cộng tác viên để mọi người nắm rõ.
Mục lục bài viết
1. Khái niệm hợp đồng cộng tác viên:
1.1. Khái niệm:
Hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ thể về khái niệm hợp đồng cộng tác viên. Tuy nhiên ta có thể hiểu cộng tác viên là việc một cá nhân làm việc cho một cơ quan, tổ chức, đơn vị theo chế độ cộng tác nhưng không nằm trong biên chế của cơ quan, đơn vị, tổ chức đó. Công việc cộng tác viên sẽ được trả thù lao dựa trên khối lượng, kết quả công việc hoàn thành hoặc dựa trên tiến độ thực hiện công việc tùy theo thỏa thuận của các bên.
Trên thực tế hiện nay các doanh nghiệp thường sử dụng cộng tác viên nhằm mục đích thực hiện việc hỗ trợ cho các công việc hoặc để hoàn thành các công việc mà dự kiến sẽ kết thúc trong một khoảng thời hạn ngắn nhất định, không mang tính chất lâu dài; đối với địa điểm, thời gian làm việc của cộng tác viên thường tự do, tùy từng người; hình thức trả có thể là tạm ứng và thanh toán một lần sau khi xong hoàn thành xong công việc.
Đồng thời theo quy định tại Điều 513 Bộ luật dân sự năm 2015 hợp đồng dịch vụ được xác định là loại hợp đồng được giao kết dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bao gồm một bên cung ứng dịch vụ và một bên sử dụng dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ sẽ thực hiện các công việc theo quy định cho bên sử dụng dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ sẽ phải có trách nhiệm trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ sau khi họ hoàn thành công việc.
Như vậy theo các quy định trên thì hợp đồng cộng tác viên được xem là một loại của hợp đồng dịch vụ, trong đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cộng tác viên và bên thuê dịch vụ ở đây là bên nhận cộng tác viên làm việc, đồng thời bên nhận cộng tác viên làm việc phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ là cộng tác viên.
1.2. Hợp đồng cộng tác viên có phải là hợp đồng lao động:
Theo quy định tại Điều 13 Bộ luật lao động năm 2019 có quy định hợp đồng lao động được xác định là hợp đồng thể hiện sự thỏa thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động về các vấn đề sau: việc làm có trả công, điều kiện lao động, tiền lương, các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Nếu các bên thỏa thuận giao kết hợp đồng bằng một tên gọi khác nhưng trong hợp đồng có các nội dung thể hiện về các vấn đề tiền lương, việc làm có trả công; sự điều hành, quản lý và giám sát của một bên đối với bên kia thì cũng sẽ được coi là hợp đồng lao động. Các bên giao kết hợp đồng lao động khi có phát sinh quan hệ lao động.
Khái niệm quan hệ lao động được quy định tại khoản 5 Điều 3 Bộ luật lao động năm 2019, theo đó quan hệ lao động được xác định là một quan hệ xã hội phát sinh từ việc thuê, mướn, sử dụng người lao động, việc trả lương giữa người sử dụng lao động và người lao động hoặc với các cá nhân, tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy từ những phân tích nêu trên, nếu doanh nghiệp tuyển dụng người lao động dưới hình thức cộng tác viên thì hợp đồng cộng tác viên vẫn có thể được xem là hợp đồng lao động nếu giữa các bên có phát sinh quan hệ lao động, trong nội dung của hợp đồng có quy định về công việc có tính chất là làm công ăn lương, người lao động phải chịu những sự ràng buộc nhất định của các quy định, của quy chế làm việc của công ty như thời gian làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, thời giờ tăng ca, ngày nghỉ lễ, tết, chịu sự giám sát và quản lý từ doanh nghiệp thì lúc này người được tuyển dụng vào làm cộng tác viên được xem như đang làm việc theo chế độ hợp đồng lao động và tùy theo thời hạn của hợp đồng mà xác định loại hợp đồng lao động.
2. Quy định về việc tham gia bảo hiểm xã hội đối với hợp đồng cộng tác viên:
Theo những quy định nêu trên thì hợp đồng cộng tác viên có thể được xác định là hợp đồng dịch vụ hoặc cũng có thể là hợp đồng lao động. Tùy theo từng loại hợp đồng mà việc tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động hay chính là của người cộng tác viên cũng sẽ khác nhau, cụ thể như sau:
2.1. Hợp đồng cộng tác viên là hợp đồng dịch vụ:
Theo quy định tại Điều 518 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì bên cung ứng dịch vụ tức cộng tác viên khi giao kết hợp đồng cộng tác viên là hợp đồng dịch vụ thì sẽ được hưởng các quyền lợi bao gồm:
– Được quyền yêu cầu bên sử dụng dịch vụ là doanh nghiệp trả khoản tiền dịch vụ cho mình sau khi hoàn thành được tiến độ, khối lượng công việc mà các bên thỏa thuận từ ban đầu. Phía doanh nghiệp sẽ phải có trách nhiệm trả đủ và đúng thời hạn đã ấn định giữa các bên.
– Được quyền thay đổi các điều kiện trong hợp đồng đã giao kết vì lợi ích của phía bên doanh nghiệp. Trường hợp này cộng tác viên không nhất thiết phải chờ ý kiến đồng ý của doanh nghiệp mà có thể thay đổi luôn nếu có cơ sở cho rằng việc chờ lấy ý kiến kéo dài thời gian sẽ gây ra thiệt hại cho phía doanh nghiệp. Tuy nhiên cộng tác viên sẽ phải thông báo ngay cho doanh nghiệp biết về nội dung thay đổi.
– Có quyền yêu cầu phía doanh nghiệp cung cấp cho mình các thông tin, tài liệu và các phương tiện, điều kiện để thực hiện và hoàn thành công việc.
Theo quy định tại Điều 2
2.2. Hợp đồng cộng tác viên là hợp đồng lao động:
Nếu hợp đồng cộng tác viên được xác định là một dạng của hợp đồng lao động, cộng tác viên có tư cách là người lao động thì căn cứ quy định tại Điều 168 Bộ luật Lao động năm 2019 lúc này người sử dụng lao động và người lao động sẽ phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp đồng thời người lao động sẽ được hưởng các quyền lợi, chế độ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật về bảo hiểm y tế. Cụ thể như sau:
- Bảo hiểm xã hội:
– Những người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng cho đến dưới 3 tháng;
– Những người làm việc theo chế độ hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc hợp đồng lao động theo một công việc nhất định nào đó mà thời hạn của hợp đồng từ đủ 3 tháng – dưới 12 tháng. Các loại hợp đồng lao động được giao kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người lao động là người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động cũng sẽ áp dụng điều khoản này.
Như vậy nếu hợp đồng cộng tác viên thuộc trường hợp là hợp đồng lao động thì phải tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Trách nhiệm tham gia thuộc về cả người lao động và người sử dụng lao động.
- Bảo hiểm y tế:
Tương tự như đối với quy định về tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, cộng tác viên được xác định với tư cách là người lao động trong quan hệ lao động thì cũng sẽ thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm y tế theo khoản 6 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2008. Người sử dụng lao động có trách nhiệm khai báo, đăng ký tham gia cho người lao động đồng thời với việc tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
- Bảo hiểm thất nghiệp:
Hiện nay theo quy định tại khoản 1 Điều 43 Luật việc làm năm 2013 những người lao động khi làm việc theo chế độ hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc sẽ phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp, cụ thể bao gồm tham gia các loại hợp đồng sau:
– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc có xác định thời hạn;
– Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn;
– Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc hợp đồng lao động theo 01 công việc nhất định mà có thời hạn từ đủ 03 tháng – dưới 12 tháng.
Nếu người lao động hiện giao kết và đang thực hiện cùng một lúc nhiều hợp đồng lao động nêu trên thì trách nhiệm tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ thuộc về người lao động và người sử dụng lao động của hợp đồng lao động được giao kết đầu tiên.
Như vậy ta có thể thấy nếu hợp đồng cộng tác viên được xác định là hợp đồng lao động thì người lao động và người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia tất cả các chế độ của bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế.