Hiện nay có thể nói Việt Nam là một trong những nước nhận được nhiều lợi ích từ hiêp định RCEP vì có các loại mặt hàng như nông thủy sản vì đây là nhu cầu của hâu hết tất cả các thành viên. Hiệp định RCEP - hay Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực đây là hiệp định đóng vai trò và có ý nghĩa với nền kinh tế Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Hiệp định RCEP là gì?
Hiệp định RCEP – danh từ, trong tiếng Anh được gọi là Regional Comprehensive Economic Partnership, viết tắt là RCEP.
Hiệp định RCEP hay còn gọi là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực, là một hiệp định thương mại tự do giữa các quốc gia thành viên của ASEAN với 6 đối tác đã có FTA với ASEAN, bắt đầu đàm phán từ ngày 9/5/2013. (Theo Association of Southeast Asian Nations – ASEAN)
Theo hiệp định này thời gian cụ thể vào 08/2012, theo đó tại hiệp định có 16 Bộ trưởng Kinh tế các nước RCEP đã công bố bản Hướng dẫn Quy tắc và Mục tiêu đàm phán của Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), với sự tham gia của 10 nước thành viên ASEAN (Brunei, Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam), và 06 đối tác FTA của ASEAN (Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, và New Zealand)
Nội dung hiệp định RCEP bao gồm: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, hợp tác kinh tế – kĩ thuật, sở hữu trí tuệ, cạnh tranh, giải quyết tranh chấp, thương mại điện tử, doanh nghiệp vừa và nhỏ, và các vấn đề khác.
Bên cạnh thực hiện nội dung với mục tiêu đàm phán của hiệp định RCEP cụ thể là sẽ đạt được một thỏa thuận hợp tác kinh tế tân tiến, toàn diện, có chất lượng cao và đem lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia. Vòng đàm phán RCEP chính thức được bắt đầu vào đầu năm 2013.
Hiệp định RCEP được khởi động đàm phán vào năm 2013, cho đến nay đã có 25 phiên đàm phán chính thức.
Trong cuộc đàm phán vào tháng 11/2018, các nhà Lãnh đạo Cấp cao cho rằng cuộc đàm phán RCEP năm 2018 đã đạt được tiến bộ đáng kể, hướng tới giai đoạn đàm phán cuối cùng, các bên tiếp tục quá trình đàm phán để kết thúc đàm phán trong năm 2019 với một Hiệp định RCEP tiến bộ, toàn diện, chất lượng cao và mang lại lợi ích cho tất cả các bên tham gia.
Về mức độ kì vọng, Hiệp định RCEP được cho là sẽ có mức độ cam kết sâu rộng hơn với những tiến bộ đáng kể hơn so với các FTA ASEAN+ hiện hành, trong khi ghi nhận sự phát triển khác nhau của các bên tham gia. (Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Trung tâm WTO VCCI)
2. Nội dung, tinh thần hiệp định và cam kết của các bên hiệp định RCEP:
Hiệp định được đưa nhằm để giảm thiểu thuế quan và quan liêu. Nó bao gồm việc thống nhất các quy tắc xuất xứ thông qua khối, có thể tạo điều kiện cho chuỗi cung ứng quốc tế và trao đổi trong toàn bộ khu vực. Nó cũng bao gồm việc cấm các loại thuế quan nhất định. Hiệp định không tập trung vào công đoàn, bảo vệ môi trường, hoặc tiền trợ cấp chính phủ.
Như vậy ta thấy tại hiệp định RCEP sẽ không được toàn diện giống như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, vốn là một hiệp định thương mại tự do khác nhưng có cùng một số những nước thành viên. RCEP “không thiết lập các tiêu chuẩn thống nhất về lao động và môi trường, hoặc cam kết các quốc gia mở cửa dịch vụ và các lĩnh vực dễ bị tổn thương khác của nền kinh tế của họ.”
Trong hiệp định như trê ta thấy có các thành viên của RCEP chiếm gần một phần ba dân số của thế giới và 29% của nền kinh tế toàn cầu. Khối thương mại tự do này sẽ lớn hơn khối thương mại giữa Hoa Kỳ, Mexico và Canada, cũng như lớn hơn cả Liên minh châu Âu. GDP cộng lại của các nước thành viên RCEP vượt qua GDP cộng lại của Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) vào năm 2007. Ben cạnh đó dựa trên quá trình phát triển kinh tế, theo đó với khối thành viên RCEP sẽ đạt được hơn 100 nghìn tỉ USD trước năm 2050. Vào ngày 23 tháng 1 năm 2017, việc Tổng thống Donald Trump đã ký một bản ghi nhớ rút Mỹ khỏi TPP, là một bước đệm tạo nên sự ra đời thành công của RCEP.
Sức ép của hiệp định tới Việt nam thể hiện ở:
Đầu tiên chúng ta phải nhắc tới những sức ép cạnh tranh hàng hóa. Bộ Công Thương cho biết, nhiều đối tác trong RCEP có cơ cấu sản phẩm tương tự Việt Nam nhưng năng lực cạnh tranh mạnh hơn. Hiện chất lượng, hàm lượng giá trị gia tăng của hầu hết sản phẩm Việt còn khiêm tốn.
Sức ép này không chỉ diễn ra trên thị trường xuất khẩu mà thị trường nội địa cũng tương tự. Theo các nhà kinh tế khi thị trường nội địa cũng phải mở theo RCEP, các hàng hóa có cơ cấu sản phẩm tương tự sẽ tràn vào Việt Nam. Hàng Việt phải cạnh tranh trực diện với các mặt hàng nhập khẩu từ RCEP, đặc biệt từ Trung Quốc.
Tiếp theo chúng ta cần biết với cấc loại hàng hóa Việt vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các nguồn nhập khẩu, trong khi khả năng cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị, mức độ tham gia cung cấp thương mại dịch vụ toàn cầu còn khiêm tốn.
Như các thông tin nói trên ta thấy với thách thức lớn nhất của Việt Nam trong RCEP cũng không khác biệt lắm so với các FTA trước đây. Bên cạnh dó nó cũng là bằng cách nào để hiện thực hóa cơ hội, để các doanh nghiệp hiểu được các cơ hội đặc biệt từ RCEP, từ đó tận dụng chúng một cách hiệu quả. “Thách thức không mới nhưng giải pháp lại không dễ dàng”, bà nói.
3. Vai trò của hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP:
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những nội dung của hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP giúp các doanh nghiệp trong khối thâm nhập sâu hơn vào thị trường khu vực nhờ giảm mức thuế nhập khẩu và cộng gộp chi phí xuất xứ nguyên liệu nhập khẩu thuận lợi cho các doanh nghiệp dễ dàng khai thác lợi ích của các hiệp định đã có và thúc đẩy chuỗi sản xuất trong khu vực và nó giúp hài hòa các cam kết, quy định trong FTA ASEAN+1 hiện nay, đặc biệt là quy tắc xuất xứ và thuận lợi hóa thương mại, giúp cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia theo hướng tích cực.
Theo đó nên ta thấy để tận dụng tốt nhất cơ hội từ RCEP, Chính phủ và các cơ quan chức năng trong khối RCEP cần có những động thái tích cực hơn trong cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư nhằm tạo dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng, công bằng cho mọi thành phần kinh tế. Ngoài ra, cũng cần có những định hướng tuyên truyền rõ ràng giúp cho các doanh nghiệp vượt qua thách thức và có định hướng đầu tư phù hợp.
RCEP được kỳ vọng sẽ mang lại những cơ hội mới cho Việt Nam thông qua ván đề Cải thiện tiếp cận các thị trường đầu tư và xuất khẩu của ASEAN và các đối tác (cả nước phát triển và đang phát triển) với nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ đa dạng Mở cửa để nhập hàng hóa rẻ hơn (nhất là đầu vào cho sản xuất, máy móc thiết bị có công nghệ hiện đại và phù hợp.
Bên cạnh đó việc tham gia vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực và toàn cầu, giảm chi phí giao dịch và tạo dựng môi trường kinh doanh thân thiện hơn nhờ hài hòa hóa các quy định hiện hành và áp dụng các quy định đó trong khuôn khổ các FTA khác nhau của ASEAN; Việt Nam sẽ có những điều kiện thuận lợi để không những mở rộng thị trường, xóa bỏ các rào cản thương mại và dỡ bỏ hàng rào thuế quan một cách cơ bản để tạo điều kiện cho hàng hóa của Việt Nam tiếp cận thị trường và có những điều kiện thuận lợi rất lớn để thu hút những nguồn đầu tư từ những quốc gia đối tác, những nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Hiệp định này góp phần khẳng định vai trò trung tâm của ASEAN trong khu vực, tích cực tạo dựng và thúc đẩy một cấu trúc khu vực vì hòa bình, an ninh và thịnh vượng ở Châu Á và hội nhập kinh tế khu vực mạnh mẽ. Theo hiệp định các nhà lãnh đạo các nước tham gia RCEP đã đưa ra quan điểm và cho rằng RCEP sẽ là một Hiệp định hiện đại, toàn diện, chất lượng cao và cùng có lợi, bao gồm các lĩnh vực: Thương mại hàng hóa; Dịch vụ; Đầu tư; Hợp tác kinh tế và kỹ thuật; Sở hữu trí tuệ; Cạnh tranh; Giải quyết tranh chấp và các vấn đề khác. Như vậy nên các quốc gia trong khối RCEP sẽ cam kết tự do hóa gần hết 100% thương mại, thông qua hàng loạt các hiệp định thương mại tự do.
Như vậy Việt Nam cần tiếp tục làm đơn giản hóa các thủ tục, đặc biệt là thuận lợi hóa thương mại, tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp tư nhân, di chuyển của tư nhân, tạo thị trường liên kết hoàn hảo về thu hút nguồn lao động và nguồn nhân lực, góp phần tạo điều kiện để trao đổi nguồn nhân lực có chất lượng, đóng góp vào sự phát triển của kinh tế, cũng như vào trong hoạt động của khu vực doanh nghiệp, nhất là của các doanh nghiệp tư nhân.