Mức bồi thường khi gây tai nạn giao thông chết người? Quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người gây tai nạn giao thông chết người?
Theo quy định của pháp luật thì người nào mà có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, đến tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của những người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Đối với trường hợp người điều khiển phương tiện giao thông mà gây tai nạn chết người ngoài bị truy cứu cứu trách nhiệm hình sự thì người có lỗi gây tai nạn giao thông chết người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự. Vậy quy định mức bồi thường khi gây tai nạn giao thông chết người như thế nào?
Căn cứ pháp lý:
–
Mục lục bài viết
1. Mức bồi thường khi gây tai nạn giao thông chết người:
Căn cứ Điều 584
– Người nào mà có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, đến danh dự, nhân phẩm, uy tín, đến tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của những người khác mà gây ra thiệt hại thì phải bồi thường, trừ các trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan có quy định khác.
– Người gây thiệt hại sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường về thiệt hại trong trường hợp các thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc do hoàn toàn lỗi của bên bị thiệt hại, trừ các trường hợp có thỏa thuận khác hoặc là luật có quy định khác.
– Trong trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chính chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản đó phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ các trường hợp thiệt hại mà phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Theo quy định này thì trong trường hợp một người điều khiển phương tiện giao thông tham gia giao thông mà gây tai nạn chết người thì hành vi đó chính là hành vi xâm phạm tới tính mạng của người khác. Ngoài bị truy cứu cứu trách nhiệm hình sự thì người có lỗi gây tai nạn giao thông chết người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự. Người gây tai nạn giao thông không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do các sự kiện bất khả kháng hoặc là do hoàn toàn lỗi của bên bị thiệt hại, trừ các trường hợp có thỏa thuận khác hoặc là luật có quy định khác.
Ngoài ra, tại Điều 601 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tại điều này cũng quy định rằng phương tiện giao thông vận tải cơ giới chính là một trong những nguồn nguy hiểm cao độ. Phương tiện giao thông vận tải cơ giới được khoản 18 Điều 3
“Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác”.
Có nghĩa là, đối tượng phải thực hiện bồi thường dân sự cho bên bị thiệt hại khi gây tai nạn giao thông chết người chính là chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tai nạn, nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mượn phương tiện mà người mượn phương tiện gây ra tai nạn giao thông thì chính người mượn xe gây ra tai nạn thì phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu do chính lỗi của mình gây ra. Khoản 3 của Điều này cũng quy định chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả khi không có lỗi, trừ trường hợp các thiệt hại xảy ra hoàn toàn là do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc là trong tình thế cấp thiết, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác.
Thêm nữa, trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ mà bị chiếm hữu, bị sử dụng trái pháp luật thì chính người đang chiếm hữu, đang sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi chủ sở hữu, người chiếm hữu, người sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà có lỗi trong việc để cho nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, bị sử dụng trái pháp luật thì phải có trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại.
Tại Điều 585 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại thì bồi thường thiệt hại dân sự khi gây tai nạn giao thông chết người phải bảo đảm các nguyên tắc sau:
– Thiệt hại trên thực tế phải được bồi thường toàn bộ và phải kịp thời. Các bên có thể tự thoả thuận về mức bồi thường, về hình thức bồi thường bằng tiền hay bằng hiện vật hoặc là thực hiện một công việc, phương thức bồi thường thiệt hại một lần hoặc nhiều lần, trừ các trường hợp pháp luật có quy định khác.
– Người chịu trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại có thể sẽ được giảm mức bồi thường nếu như không có lỗi hoặc là có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với tình hình khả năng kinh tế của mình.
– Khi mức bồi thường mà không còn phù hợp với thực tế thì các bên là bên bị thiệt hại hoặc là bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu
– Khi bên bị thiệt hại mà có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì sẽ không được bồi thường về phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
– Bên có quyền, bên có lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu mà thiệt hại xảy ra do không áp dụng những biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, để hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Như vậy, theo quy định trên thì khi gây ra tai nạn giao thông chết người thì người có lỗi phải bồi thường toàn bộ và kịp thời cho người bị thiệt hại (kể cả về tài sản bị thiệt hại). Pháp luật cho phép các bên tự thoả thuận về hình thức bồi thường, mức bồi thường, nếu các bên không thoả thuận được về mức bồi thường thì sẽ phải tuân thủ về mức bồi thường tối đa mà pháp luật quy định. Trên thực tế, hầu hết bồi thường thiệt hại khi gây tai nạn giao thông chết người thì các bên sẽ thoả thuận về hình thức bồi thường mà bên gây tai nạn sẽ phải bồi thường thiệt hại là bằng tiền.
Tại Điều 591 Bộ Luật Dân sự 2015 có quy định về thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, theo đó thì người gây tai nạn giao thông chết người phải bồi thường những khoản sau:
– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm (sẽ áp dụng trong trường hợp sau khi xảy ra tai nạn giao thông, người bị thiệt hại sẽ phải dùng mọi biện pháp y học để cứu chữa, nhưng sau đó người bị thiệt hại không qua khỏi):
+ Các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, việc bồi dưỡng, cho việc phục hồi sức khoẻ và các chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
+ Về thu nhập thực tế bị mất hoặc là bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu như thu nhập thực tế của người bị thiệt hại mà không ổn định và không thể xác định được thì sẽ áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
+ Các loại chi phí hợp lý và phần thu nhập trên thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại tại trong thời gian điều trị; nếu như người bị thiệt hại mà mất khả năng lao động và cần phải có người để thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả các chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
+ Một khoản tiền khác nhằm để bù đắp về tổn thất tinh thần mà người đó phải gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp về tổn thất về tinh thần sẽ do các bên thoả thuận; nếu như không thoả thuận được thì mức tối đa để bồi thường cho một người có sức khỏe bị xâm phạm là không quá năm mươi lần với mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
– Các chi phí hợp lý cho việc mai táng;
– Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
– Các thiệt hại khác do luật quy định.
– Một khoản tiền khác nhằm để bù đắp về tổn thất về tinh thần cho những người thân thích mà thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu mà không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã thực hiện trực tiếp nuôi dưỡng, người đã thực hiện trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại sẽ được hưởng khoản tiền này. Về mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần sẽ do các bên thoả thuận; nếu các bên không thoả thuận được thì quy định mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm sẽ không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
2. Truy cứu trách nhiệm hình sự với người gây tai nạn giao thông chết người:
Theo quy định tại Điều 260
– Người nào mà tham gia giao thông đường bộ mà có vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà gây thiệt hại cho những người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc là phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
+ Làm chết người;
+ Gây thương tích hoặc là gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương của cơ thể 61% trở lên;
+ Gây thương tích hoặc là gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương của cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
+ Gây ra thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
– Phạm tội mà thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
+ Không có giấy phép lái xe theo đúng quy định;
+ Trong tình trạng mà có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc trong hơi thở có nồng độ cồn mà vượt quá mức quy định, có sử dụng các chất ma túy hoặc các chất kích thích mạnh khác;
+ Bỏ chạy nhằm để trốn tránh trách nhiệm hoặc là cố ý không cứu giúp người bị nạn;
+ Không chấp hành các hiệu lệnh của người điều khiển hoặc người hướng dẫn giao thông;
+ Làm chết 02 người;
+ Gây ra thương tích hoặc là gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà có tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của tất cả những người này từ 122% đến 200%;
+ Gây ra thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
– Phạm tội mà thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì sẽ bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
+ Làm chết 03 người trở lên;
+ Gây ra thương tích hoặc là gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng của tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
+ Gây ra thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
Như vậy, nếu người điều khiển phương tiện giao thông gây tai nạn chết người thì sẽ tuỳ vào mức độ thiệt hại, mức độ lỗi, tính chất của vụ án,…mà sẽ có khung xử phạt và mức xử phạt khác nhau về hình sự khác nhau.