Hợp đồng dân sự là gì? Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự?
Hợp đồng về bản chất là sự thoả thuận của các bên, tuy nhiên những sự thỏa thuận này không được trái với những quy định của pháp luật và những quy tắc đạo đức, xã hội. Tuy nhiên trong quá trình giao kết hợp đồng, vì một vài lý do nào đó mà một trong các bên có thể huỷ bỏ hợp đồng. Khi huỷ hợp đồng thì sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định. Vậy hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự được quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung về: ” Hậu quả của việc huỷ bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự.”
Luật sư
– Cơ sở pháp lý:
1. Hợp đồng dân sự là gì?
– Khái niệm hợp đồng dân sự: Tại Điều 385 Bộ luật dân sự 2015 quy định, theo đó: hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự. Như vậy, có thể thấy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận của một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay đổi, chấm dứt các nghĩa vụ dân sự đó.
– Về hình thức của hợp đồng dân sự:
Những điều khoản mà các bên đã cam kết thoả thuận phải được thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác, hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định. Tùy thuộc vào nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào độ tin tưởng lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Tại Điều 119 BLDS năm 2015 thì hình thức của hợp đồng (cũng là hình thức của giao dịch dân sự bao gồm:
+ Hình thức miệng (bằng lời nói):
Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thoả thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong những
trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau (bạn bè cho nhau vay tiền) hoặc đối với những hợp đồng mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt.
+ Hình thức viết (bằng văn bản):
Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó, các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng kí tên xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lí chắc chắn hơn so với hình thức miệng. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc giao kết thì các bên thường chọn hình thức này. Thông thường, hợp đồng được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản, coi như đã có trong tay một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.
+ Hình thức có công chứng, chứng thực, đăng ký:
Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của nó là những tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát khi chúng được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác thì các bên phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng được lập ra theo hình thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi của mình được bảo đảm, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp đồng.
– Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự:
Khi hợp đồng đã có hiệu lực, các bên phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự đã được xác định từ hợp đồng đó. Trên cơ sở của hình thức đã giao kết mà hiệu lực của hợp đồng được xác định theo từng thời điểm khác nhau. Về nguyên tắc, hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự còn được xác định theo sự thoả thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. Vì vậy, hợp đồng dân sự được coi là có hiệu lực vào một trong các thời điểm sau đây: (1) Hợp đồng miệng có hiệu lực tại thời điểm các bên đã trực tiếp thoả thuận với nhau về những nội dung chủ yếu của hợp đồng, (2) Hợp đồng bằng văn bản thường, có hiệu lực tại thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản hợp đồng;(3) Hợp đồng bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký có hiệu lực tại thời điểm văn bản hợp đồng được công chứng, chứng thực, đăng ký;
Ngoài ra, hợp đồng còn có thể có hiệu lực sau các thời hỗn cho th điểm nói trên nếu các bên đã tự thoả thuận để xác định hoặc trong trường hợp mà pháp luật đã quy định cụ thể. Ví dụ: Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực tại thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản (Điều 458 BLDS năm 2015).
2. Hậu quả pháp lý của việc huỷ bỏ hợp đồng theo quy định của Bộ luật dân sự.
– Tại Điều 423 Bộ luật dân sự 2015 quy định về việc hủy bỏ hợp đồng, theo đó hủy bỏ hợp đồng là việc chấm dứt giao dịch hợp đồng đó và bên hủy bỏ hợp đồng sẽ phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật và dựa trên thiệt hại thực tế, tuy nhiên trong một số trường hợp một bên sẽ có quyền hủy bỏ hợp đồng và sẽ không phải bồi thường thiệt hại, tuy nhiên, bên hủy bỏ hợp đồng phải
+ Trường hợp 1: bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận: đối với trường hợp này, việc hủy bỏ hợp đồng là có căn cứ, có cơ sở và điều này đã được các bên thỏa thuận trước đó trong quá trình giao kết hợp đồng.
+ Trường hợp 2: bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng: việc vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của hợp đồng sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý, những thiệt hại đối với bên không vi phạm. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng và để ngăn chặn hành vi này thì việc hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp này là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với tình hình thực tế.
+ Trường hợp 3: những trường hợp khác do luật quy định.
Theo đó, có các trường hợp hủy bỏ hợp đồng mà pháp luật dân sự đã ghi nhận, đó là những trường hợp sau:
+ Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ: đối với trường hợp này thì có thể hủy bỏ hợp đồng đối với:
(1): Bên có nghĩa vụ thực hiện mà lại không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng. Việc bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng nhưng không thực hiện đã vi phạm vào nghĩa vụ hợp đồng và điều này sẽ rất đến rất nhiều những hậu quả và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên có yêu cầu.
(2): Hợp đồng không đạt được mục đích nếu không được thực hiện trong thời hạn nhất định mà hết thời hạn đó bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải tuân theo quy định, điều này xuất phát từ tính chất hoặc xuất phát từ ý chí của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng mà các bên đã giao kết, đã thỏa thuận trước đó.
+ Hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện: đối với trường hợp này, việc huỷ bỏ hợp đồng sẽ xảy ra nếu bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được. Khi đó, bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại dựa trên thiệt hại thực tế và những quy định của pháp luật.
+ Hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp tài sản bị mất, bị hư hỏng: nếu trong quá trình thực hiện hợp đồng mà một bên làm mất, làm hư hỏng tài sản mà tài sản đó lại là đối tượng của hợp đồng mà tài sản đó không thể hoàn trả hoặc không thể đền bù bằng những tài sản khác, thậm chí tài sản đó còn không thể sửa chữa, thay thế thì bên còn lại sẽ có quyền hủy bỏ hợp đồng. Đồng thời, bên vi phạm sẽ phải bồi thường bằng tiền ngang với giá trị của tài sản bị mất, bị hư hỏng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc theo quy định của pháp luật.
– Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng: tại Điều 427 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng, theo đó, khi hủy bỏ hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Đồng thời, việc hủy bỏ hợp đồng sẽ là cơ sở để chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng và các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản. Việc hoàn trả được thực hiện bằng hiện vật. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì được trị giá thành tiền để hoàn trả và bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên kia được bồi thường. Trong trường hợp các bên cùng có nghĩa vụ hoàn trả thì việc hoàn trả phải được thực hiện cùng một thời điểm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
– Nhằm nâng cáo tính kỷ luật trong việc thực hiện hợp đồng, pháp luật cho phép các bên trong hợp đồng được thỏa thuận về việc một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng nếu bên kia vị phạm hợp đồng. Vì vậy, trong những trường hợp đó bên vi phạm hợp đồng có quyền đơn phương hủy hợp đồng và yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại. Khi một bên hủy hợp đồng thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên phải hoàn trả cho nhau những tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được vật thì phải hoàn trả bằng tiền.