Người giám hộ được được phân chia ra thành người giám hộ đương nhiên và người giám hộ được cử hoặc chỉ định. Theo đó trong Bộ luật Dân sự, quy định rất cụ thể về giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên và giám hộ đương nhiên của người bị mất năng lực hành vi dân sự. Giám hộ đương nhiên là gì? Quy định giám hộ đương nhiên?
Mục lục bài viết
1. Giám hộ đương nhiên là gì?
Dựa theo quy định tại Điều 46 của
Từ khái niệm được quy định ở trên thì có thể hiểu được chức năng của người giám hộ sẽ thực hiện chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ là những người như sau: chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi.
Bên cạnh đó có thể hiểu được khái niệm về người giám hộ đương nhiên một cách đơn giản như sau: Người giám hộ đương nhiên là người có quan hệ thân thích với người được giám hộ và được pháp luật quy định là người giám hộ nếu có đủ điều kiện làm người giám hộ.
Điều kiện để trở thành người giám hộ đương nhiên là khi cá nhân muốn trở thành người giám hộ cho những người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang gặp khó khăn trong nhận thức, khó khăn làm chủ hành vi thì cần phải được xác định là người phải có đủ các năng lực hành vi dân sự và đương nhiên không thể thiếu quy định về độ tuổi của người đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên. Bên cạnh đó thì để trở thành một người giám định thật sự tốt và có thể bảo vệ quyền lợi cho người được giám hộ thì người này cần phải có tư cách đạo đức tốt.
Pháp luật nước ta không đồng ý cho việc một người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án nhưng chưa được xoá án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác có thể trở thành người giám hộ vì những người này chưa thực sự có tư cách đạo đức tốt và không có thể đáp ứng đủ các điều kiện về người giám hộ.
Tuy nhiên, để giúp những người này sau khi được xóa án tích về các tội trên trở về hòa nhập với cộng đồng và có thể làm lại từ đầu thì người này có quyền của mình thì vẫn có khả năng trở thành người giám hộ và đặc biệt là những người này được xác định không phải là người bị
2. Giám hộ đương nhiên trong Bộ luật dân sự:
Căn cứ pháp lý quy định về người giám hộ đương nhiên dựa theo quy định của
Trên cơ sở quy định tại Điều 52 Bộ luật dân sự hiện nay quy định về người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên, Theo đó, quy định về giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được quy định tại điều 47 và điều 52
Ngay sau người giám định đương nhiên là cha mẹ thì người thứ nhất được pháp luật xác định là người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên khi cha mẹ của họ không đủ các điều kiện chăm sóc, giáo dục thì anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên này; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ.
Bên cạnh đó thì có những trường hợp người chưa thành niên là con một trong gia đình hoặc anh chi ruột không đủ điều kiện để giám hộ thì người giám hộ đương nhiên được quy định tại Khoản 2 Điều 52 của Bộ luật này thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ.
Nếu như người chưa thành niên mà không có người giám hộ đương nhiên là anh, chi ruột, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại được nêu trên thì theo quy định tại Khoản 3 Điều 52 Bộ luật này thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên.
Từ quy định được nêu ra ở trên, có thể thấy một điều rằng pháp luât Dân sự đã dự liệu trước về người giám hộ đương nhiên là những người ruột thịt, thân thích như: cha, mẹ, anh ruột, chị ruột, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột được xác định là người giám hộ đương nhiên nhằm mục đích thuận tiện trong việc giám hộ như: chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chịu trách nhiệm trước pháp luật của người được giám hộ. Dù gì thì những người anh em ruột thịt trở thành người giám hộ đương nhiên thì cũng rất hợp lý về mặt đạo đức việc giáo dục của những người thân sẽ đảm bảo hơn so với việc người không thân quen thực hiện việc giám hộ đó.
Cũng dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại điều 48 và điều 53
3. Xác định người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự:
Trong trường hợp không lựa chọn người giám hộ thì người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự được xác định như sau:
Trong quan hệ vơ chồng mà nếu người bị mất năng lực hành vi dân sự là vợ thì chồng là người giám hộ đương nhiên và cũng có quy định ngược lại nếu chồng là người mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ đương nhiên.
Bên cạnh quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng thì còn có quan hệ giữa cha mẹ và con khi đó cha mẹ sẽ là người giám hộ đương nhiên của con những trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người giám hộ đương nhiên của cha mẹ là người con cả; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ theo đó điều kiện để trở thành người giám hộ đương nhiên thì còn có cha mẹ bọ mất năng lực hành vi dân sự phải đủ các năng lực hành vi dân sự và đương nhiên không thể thiếu quy định về độ tuổi của người đó phải từ đủ 18 tuổi trở lên và các quy định khác của pháp luật hiện hành về điều kiện để trở thành người giám hộ đương nhiên của cha mẹ.
Ngoài ra, trường hợp người thành niên mà được xác định là mất năng lực hành vi dân sự những chưa xác lập quan hệ hôn nhân và chưa có vợ, chồng, con hoặc đã xác lập quan hệ hôn nhân và có vợ, chồng, con mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ dựa theo quy định tại Khoản 3 Điều 53 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, để trở thành người giám hộ đương nhiên thì người được xác định là người giám hộ đương nhiên phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Người giám hộ đương nhiên mà không đăng ký việc giám hộ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ.
Như vậy, có thể thấy được pháp luật nước ta quy định rất chặt chẽ về vấn đề người giám hộ đương nhiên đối với người chưa đủ tuổi vị thành niên và của người bị mất năng lực hành vi dân sự để đảm bảo các quyền lợi của những người này trước pháp luật. Bởi lẽ những người này chưa có khả năng nhận thức và mất khả năng nhận thức về các hành vi của mình đối với xã hội và trước pháp luật.
Cơ sở pháp lý:
– Bộ luật dân sự năm 2015.