Giao dịch bảo đảm là loại giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận, thực hiện bằng những biện pháp bảo đảm mang tính tài sản phù hợp với quy định của pháp luật. Vậy, pháp luật hiện nay quy định như thế nào về việc giải quyết tranh chấp tại tòa án về giao dịch bảo đảm?
Mục lục bài viết
1. Giải quyết tranh chấp tại tòa án về giao dịch bảo đảm:
Giao dịch bảo đảm được xem là công cụ hữu hiệu nhằm mục đích ngăn ngừa hành vi vi phạm của bên có nghĩa vụ và đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của bên có quyền trong quan hệ dân sự. Trong các mối quan hệ giao lưu dân sự thì biện pháp bảo đảm đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tuy nhiên thực tế xảy ra rất nhiều tranh chấp xoay quanh những giao dịch bảo đảm. Các bất đồng và tranh chấp thường xuyên xảy ra giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm trong quá trình xác lập và thực hiện tài sản bảo đảm trên thực tế. Khi xảy ra tranh chấp xoay quanh những giao dịch bảo đảm thì có thể thực hiện phương thức thương lượng để giải quyết. Đây được xem là phương thức tối ưu cần phải đặt lên hàng đầu và là phương thức hiệu quả nhất trong mọi giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên nếu thương lượng không đạt kết quả thì các bên cần phải đưa vụ việc ra tòa án có thẩm quyền, mặc dù quá trình giải quyết tại tòa án thường rất lâu và tốn kém. Căn cứ theo quy định tại Điều 191 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về thủ tục giải quyết và xử lý đơn khởi kiện tranh chấp tại tòa án về giao dịch bảo đảm như sau:
Bước 1: Tòa án thông qua bộ phận tiếp nhận đơn sẽ nhận đơn khởi kiện cho người khởi kiện nộp trực tiếp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc người thông qua dịch vụ bưu chính, cán bộ tiếp nhận đơn sẽ ghi vào sổ nhận đơn. Trong trường hợp tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi kiện thông qua hình thức trực tuyến thì tòa án cần phải in ra bản giấy và ghi rõ vào sổ nhận đơn.
Bước 2: Trong trường hợp nhận đơn khởi kiện thông qua dịch vụ bưu chính, thì trong thời hạn 02 ngày làm việc được tính kể từ ngày nhận đơn, tòa án có thẩm quyền phải gửi thông báo nhận đơn cho người khởi kiện. Trong trường hợp tòa án nhận đơn khởi kiện thông qua hình thức trực tuyến, thì tòa án cần phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện thông qua cổng thông tin điện tử của tòa án.
Bước 3: Trong thời hạn 03 ngày làm việc được tính kể từ ngày nhận đơn khởi kiện thì chánh án tòa án phải phân công thẩm phán thực hiện hoạt động xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn 05 ngày làm việc được tính kể từ ngày được phân công thì thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện. Nếu xét thấy đơn khởi kiện còn thiếu thì sẽ yêu cầu sửa đổi và bổ sung đơn theo quy định của pháp luật, nếu xét thấy đơn khởi kiện đã đầy đủ thì có thể tiến hành thủ tục thụ lý vụ án theo thủ tục thông thường hoặc thụ lý vụ án theo thủ tục rút gọn nếu như vụ án đó có đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn theo quy định của pháp luật. Có thể ra quyết định chuyển đơn khởi kiện cho tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi kiện nếu vụ án đó xét thấy thuộc thẩm quyền của tòa án, trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu xét thấy vụ án đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
Bước 4: Gọi các bên lên hòa giải, mở phiên họp cung cấp chứng cứ, nếu như hòa giải không thành thì sẽ đưa vụ việc ra xét xử theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau khi có bản án sơ thẩm về giải quyết tranh chấp xoay quanh những giao dịch bảo đảm bảo các bên vẫn thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm thì có thể thực hiện hoạt động kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
2. Điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm tại tòa án:
– Căn cứ theo quy định tại Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội, có quy định về 03 điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan đến giao dịch bảo đảm tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án, cụ thể như sau:
– Trong hợp đồng bảo đảm các bên có thỏa thuận về việc bên bảo đảm sẽ phải có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm hoặc cho các tổ chức tín dụng, giao tài sản bảo đảm cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc tổ chức mua bán xử lý nợ xấu có quyền xử lý tài sản bảo đảm đó. Hướng dẫn cụ thể về vấn đề này hiện nay được quy định tại Điều 5 của Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành, thỏa thuận về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm có thể được ghi nhận trong hợp đồng bảo đảm hoặc được ghi nhận trong
– Giao dịch bảo đảm hoặc các biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật trên thực tế;
– Không có các đương sự đang cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp đang ở nước ngoài, trừ những trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận với nhau về việc đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án giải quyết tranh chấp về giao dịch bảo đảm theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự này giải trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và các bên đã có sự thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản đó. Hướng dẫn cụ thể về vấn đề này hiện nay được quy định tại Điều 5 của Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành. Theo đó thì có thể hiểu, tranh chấp không có được sự cư trú ở nước ngoài được xác định là những loại tranh chấp thuộc một trong những trường hợp sau:
+ Đương sự là người Việt Nam tuy nhiên không cư trú trên lãnh thổ của Việt Nam vào thời điểm và án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án xác định việc cư trú của đương sự theo quy định của pháp luật về cư trú;
+ Đương sự được xác định là người nước ngoài tuy nhiên không thường trú hoặc tạm trú trên lãnh thổ của Việt Nam tại thời điểm cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án thụ lý đơn khởi kiện, và tòa án sẽ xác định việc thường trú hoặc tạm trú của các đương sự là người nước ngoài theo quy định của luật xuất cảnh nhập cảnh, quá cảnh và cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam;
+ Đương sự được xác định là tổ chức nước ngoài theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tuy nhiên không thực hiện hoạt động ủy quyền cho cá nhân và pháp nhân trên lãnh thổ của Việt Nam để thực hiện thủ tục khởi kiện và tham gia tố tụng;
+ Tranh chấp không có tài sản tranh chấp ở nước ngoài được xác định là loại tranh chấp không có tài sản phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 ở ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thời điểm mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đó là tòa án thụ lý đơn khởi kiện.
3. Nguyên tắc áp dụng pháp luật trong thực hiện biện pháp bảo đảm:
Điều 4 của Nghị định 21/2021/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, có quy định về những nguyên tắc áp dụng pháp luật trong quá trình thực hiện các biện pháp bảo đảm như sau:
– Trường hợp pháp luật về đất đai hoặc đầu tư, các pháp luật về doanh nghiệp và chứng khoán, pháp luật về bảo hiểm ngân hàng và tài nguyên thiên nhiên, pháp luật về thuỷ sản lâm nghiệp và hàng không hàng hải, pháp luật về sở hữu trí tuệ và khoa học công nghệ, hoặc các lĩnh vực pháp luật khác có quy định đặc thù về vấn đề tài sản bảo đảm, xác lập và thực hiện các biện pháp bảo đảm hoặc xử lý tài sản bảo đảm thì sẽ áp dụng theo quy định đặc thù đó. Trường hợp bên bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm hoặc những người được xác định là người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan được bảo đảm bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật thì việc thực hiện nghĩa vụ tài sản và xử lý khoản nợ liên quan đến tài sản bảo đảm đó sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật về phá sản;
– Trong trường hợp các bên trong quan hệ dân sự bảo đảm có những thỏa thuận khác phù hợp với nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, những thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không vi phạm điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, không bị phạm giới hạn về việc thực hiện quyền dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản khác có liên quan thì sẽ thực hiện theo thỏa thuận đó của các bên;
– Trong trường hợp chủ sở hữu tài sản và bên nhận bảo đảm tiến hành hoạt động thỏa thuận dùng tài sản để bảo đảm cho quá trình thực hiện nghĩa vụ của người khác thì sẽ áp dụng quy định của pháp luật về cầm cố và thế chấp tài sản;
– Trong trường hợp thỏa thuận của các bên có nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ các bên không xác định rõ và xác định không chính xác tên của biện pháp bảo đảm mà có nội dung thỏa thuận phù hợp với biện pháp bảo đảm được quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 thì sẽ áp dụng quy định về biện pháp bảo đảm tương ứng với nội dung thỏa thuận đó.
Các văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Bộ luật Dân sự năm 2015;
– Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
– Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng;
– Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành;
– Nghị định 21/2021/NĐ-CP hướng dẫn Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.