Giải pháp nâng cao vai trò của VKS trong việc hỏi cung bị can. Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can và giải pháp khắc phục.
Mục lục bài viết
- 1 1. Giải pháp chung khắc phục nguyên nhân khách quan:
- 2 2. Giải pháp khắc phục nguyên nhân chủ quan:
- 2.1 2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Viện kiểm sát:
- 2.2 2.2. Nâng cao kiểm tra hoạt động hỏi cung bị can của Điều tra viên:
- 2.3 2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho ngành kiểm sát:
- 2.4 2.4. Đảm bảo quyền bào chữa của bị can trong hoạt động hỏi cung bị can:
- 2.5 2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động hỏi cung bị can:
1. Giải pháp chung khắc phục nguyên nhân khách quan:
1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can:
Trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay, cần hoàn thiện quy định pháp luật để đảm bảo vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng với những tiêu chí sau:
Tiêu chí về nội dung, nội dung của KSV khi thực hành quyền công tố phải phù hợp với đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng về cải cách tư pháp; Phù hợp với những nguyên tắc, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Tiêu chí về hình thức, KSV khi thực hành quyền công tố phải bảo đảm được tính đồng bộ, toàn diện và thống nhất; tính khả thi, minh bạch, công khai; tính ổn định và tính dự báo.
Tiêu chí về tổ chức và thực hiện, đó là pháp luật về KSV trong thực hành quyền công tố phải được: giáo dục, tuyên truyền; Đội ngũ cán bộ KSV phải được đào tạo để đáp ứng các yêu cầu về cải cách tư pháp; Hoạt động kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về KSV trong thực hành quyền công tố phải bảo đảm thực hiện.
Chính vì vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật cần chú ý:
Một là, hoàn thiện pháp luật về KSV trong thực hành quyền công tố phải gắn với hoàn thiện pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của VKSND.
Hai là, hoàn thiện pháp luật về KSV trong thực hành quyền công tố phải gắn liền với hoàn thiện pháp luật về KSV trong kiểm sát hoạt động tư pháp.
Ba là, xác định đúng, đủ quyền năng, trách nhiệm của KSV, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử.
Bốn là, phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp; tăng thẩm quyền và trách nhiệm để KSV chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm về hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Năm là, hoàn thiện về KSV Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố phải bảo đảm tăng cường được cơ chế kiểm soát quyền lực và hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhân dân đối với hoạt động thực hành quyền công tố của KSV.
Ngoài ra, để vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can thì cần nâng cao tính độc lập của Viện kiểm sát trong hoạt động tư pháp nói chung và trong quá trình hỏi cung bị can nói riêng.
Để bảo đảm tính độc lập của VKS gắn với nhu cầu bảo vệ pháp chế XHCN, có hai nguyên tắc cơ bản chi phối tổ chức và hoạt động của VKSND được xác lập và thực hiện ngay từ khi hệ thống VKS được thành lập từ năm 1960 là: Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập của VKS với các cơ quan nhà nước khác.
Nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập của VKS với các cơ quan nhà nước khác, có nghĩa rằng mọi sự chỉ đạo, lãnh đạo công tác trong ngành Kiểm sát phải tập trung vào Viện trưởng mỗi cấp kiểm sát và tập trung thống nhất vào Viện trưởng VKSNDTC, không phụ thuộc vào sự chi phối của các cơ quan nhà nước khác. Viện trưởng VKSND cấp dưới là những người được Viện trưởng VKSNDTC giao quyền để lãnh đạo VKS cấp mình. Viện trưởng VKS cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKS cấp trên và cao nhất là sự lãnh đạo toàn diện của Viện trưởng VKSNDTC với tư cách là người bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của toàn ngành Kiểm sát thống nhất từ Trung ương đến địa phương và giữa các địa phương trong thực hiện các chức năng của VKS. Chế độ tổ chức như vậy làm cho hoạt động của toàn ngành Kiểm sát được thực hiện thành một khối thống nhất, cấp trên lãnh đạo cấp dưới và cấp dưới chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước Viện trưởng VKSNDTC và Viện trưởng VKSNDTC chịu trách nhiệm về mọi công việc của ngành Kiểm sát nhân dân trước Quốc hội, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập của VKS thường tương phản với hai nguyên tắc đặc thù của hai hệ thống cơ quan nhà nước khác, đó là nguyên tắc “song trùng” của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước và nguyên tắc “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” của
Sự phân biệt giữa nguyên tắc “song trùng” và nguyên tắc “tập trung thống nhất lãnh đạo” đã được Lênin phân tích rõ và cho rằng công tác hành chính và công tác quản lý nhà nước cần phải tính tới “sự khác nhau thật sự không tránh khỏi” giữa các địa phương về điều kiện địa lý, thổ nhưỡng, dân cư… Nếu không tính đến sự khác nhau này mà chỉ chú trọng tới mối quan tâm của Trung ương thì công tác quản lý nhà nước sẽ rơi vào chế độ tập trung, quan liêu. Chính vì vậy mà cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương vừa chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính cấp trên, vừa là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp (Hội đồng nhân dân). Trong khi đó, các VKS ở địa phương về nguyên tắc chỉ chịu sự lãnh đạo của VKS cấp trên và VKSNDTC chứ không trực thuộc và không chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Theo Lê-nin, chế độ pháp chế là phải thống nhất và để đấu tranh có hiệu quả với chủ nghĩa cục bộ địa phương thì phải thành lập VKS “có quyền và phận sự làm một việc thôi: “Bảo đảm cho pháp chế được hiểu biết thống nhất và thông suốt trong toàn nước cộng hòa, bất kể những đặc điểm của địa phương và sự can thiệp của nhà chức trách địa phương”.
Tính độc lập của Viện kiểm sát được bảo đảm thực hiện bằng nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành và độc lập với các cơ quan nhà nước khác, được xác lập trên những cơ sở lý luận cơ bản sau:
Một là, cơ sở nền tảng lý luận xây dựng nên vị trí, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát trong tổ chức bộ máy Nhà nước ta là nguyên tắc tổ chức quyền lực Nhà nước ta là thống nhất và có sự phân công, phối hợp, khác với các nước phân quyền giữa lập pháp, tư pháp và hành pháp. Xuất phát từ đặc điểm đó, mô hình bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo hướng đề cao vị trí, vai trò của Quốc hội, cơ quan đại diện cao nhất đồng thời là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, được trao ba chức năng lớn là lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước. Do vậy, việc tồn tại một hệ thống cơ quan chuyên trách thực hiện giám sát, có bộ máy từ Trung ương đến địa phương như hệ thống Viện kiểm sát là hết sức cần thiết. Ở các quốc gia mà quyền lực nhà nước tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, các nhánh quyền lực hoạt động trong thế giới đối trọng nhau, quyền lực kiểm soát quyền lực thì không cần đến một cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng giám sát như thế.
Hai là, xuất phát từ nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN), một nguyên tắc đặc thù của nhà nước XHCN. Để thiết lập một nền pháp chế XHCN thống nhất và ổn định, thì ngoài điều kiện cần là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh, thống nhất bằng những hành vi tích cực của các chủ thể, còn cần phải tính đến trật tự kỷ cương xã hội được bảo đảm, lối sống văn hoá pháp luật được phổ biến với các giá trị xã hội được tôn trọng, mọi người cảm thấy an toàn, tự do và bình đẳng. Trong không gian đó, tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh, thống nhất không chỉ là yêu cầu, đòi hỏi của bản thân pháp luật mà còn là nghĩa vụ pháp lý, lương tâm và đạo đức của mọi cá nhân. Với ý nghĩa đó, pháp chế XHCN được nâng lên thành một trong những nguyên tắc cơ bản của hiến pháp và được coi là cơ sở quan trọng nhất cho việc tổ chức và hoạt động của Nhà nước và xã hội nói chung. Việc thành lập Viện kiểm sát có mục đích bảo đảm pháp chế dân chủ nhân dân được tôn trọng, luật pháp được tôn trọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân được tôn trọng, “Ngành Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế XHCN được tôn trọng, do đó mà góp phần vào việc tăng cường chuyên chính đối với bọn phản cách mạng, bảo đảm tôn trọng các quyền dân chủ của nhân dân, góp phần vào việc tăng cường kỷ luật xã hội trong quần chúng nhân dân.
Ba là, với vị trí độc lập trong tổ chức và hoạt động, VKS có sứ mệnh quan trọng bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất quy định pháp luật. Khi thực hành quyền công tố trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện đều phải được điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là VKS phải trông nom, bảo đảm làm tốt.
Khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát có trách nhiệm bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực điều tra, giam giữ, xét xử và giải quyết các tranh chấp của Tòa án, thi hành án, bảo đảm không để một công dân nào bị bắt bớ, giam cầm, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản một cách trái pháp luật, “Ngành Kiểm sát phải kiểm tra xem bắt giam người có đúng không, xét xử người có đúng không và trước hết phải kiểm tra xem những người có quyền hành có làm đúng pháp luật hay không… Ngành Kiểm sát phải làm cho người ta biết ngăn ngừa trước hành động tham ô, chứ không phải chỉ kiểm tra khi tội đã xảy ra; Viện kiểm sát không những chỉ có nhiệm vụ phát hiện cái sai, cái vi phạm, mà phải góp phần làm cho các cơ quan và nhân dân làm đúng pháp luật hơn…
Từ tính chất tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước ta, xuất phát từ tầm quan trọng của pháp chế XHCN, từ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát thì hệ thống VKS cần có vị trí độc lập, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất là yêu cầu khách quan, cơ bản và là quy tắc chủ yếu, quán xuyến trong tổ chức và hoạt động của VKS các cấp. Điều này chứng minh tính đúng đắn của Hiến pháp và các Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) qua các thời kỳ luôn xác định Viện kiểm sát là một hệ thống độc lập, tập trung thành một khối thống nhất, đứng đầu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) do Quốc hội bầu, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội hoặc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khi Quốc hội không họp; Viện trưởng và Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa phương do Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức; Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của VKSND cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC; Viện kiểm sát nhân dân các địa phương làm nhiệm vụ một cách độc lập, các cơ quan nhà nước khác không được can thiệp. Chế định Viện kiểm sát và bảo đảm tính độc lập của Viện kiểm sát đã thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng về tổ chức bộ máy Nhà nước ta, xuất phát từ tính chất dân chủ của Nhà nước ta, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tính độc lập của Viện kiểm sát theo quy định của các nước:
Tính độc lập của cơ quan VKS hay Viện công tố là yếu tố mang tính nguyên tắc, có khi được coi là nguyên tắc hiến định. Hiến pháp Cuba, Argentina, Bolivia, Bồ Đào Nha, Columbia, Azerbaijan, Uzbekistan đều có quy định nguyên tắc này. Chẳng hạn, Hiến pháp Cuba quy định: “Viện kiểm sát độc lập, không phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương và ở địa phương”. Luật về VKS của Azerbaijan tại Điều 7 quy định: “Mọi sự cản trở bởi bất kỳ ai và với bất kỳ lý do nào, trực tiếp hay gián tiếp đối với hoạt động hợp pháp của VKS, mọi sự tác động, đe dọa, can thiệp bất hợp pháp cũng như mọi biểu hiện thiếu tôn trọng VKS đều không thể chấp nhận được và phải bị truy cứu trách nhiệm theo pháp luật”. Luật về VKS của Liên bang Nga (Điều 5), của Belarus (Điều 6) đều có những quy định tương tự.
Cùng với việc khẳng định tính chất độc lập của VKS hay cơ quan Công tố với tính cách là một thiết chế nhà nước, Hiến pháp và pháp luật của nhiều nước, kể cả những nước mà cơ quan đó nằm trong cơ cấu hành pháp còn quy định về vị trí độc lập của các Kiểm sát viên, Công tố viên. Bộ luật TTHS của Cộng hòa Pháp quy định tại Điều 669 về vị trí hoàn toàn độc lập của công tố, theo đó, các chức danh như Thẩm phán và thành viên Bồi thẩm đoàn có thể bị thay đổi, nhưng Công tố viên thì không bị thay đổi bởi những lý do tương tự đối với các chức danh đó.
Các nước Estony, Latvia, Balan hiện nay là những nước có sự thay đổi lớn trong việc quy định vị trí pháp lý của VKS so với trước đây qua việc chuyển VKS vào hệ thống các cơ quan hành pháp, đặt trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Tuy vậy, Pháp luật về VKS của các nước này vẫn quy định tính độc lập của VKS và của các Kiểm sát viên. Luật về VKS của Ba Lan quy định: “Trong hoạt động các Kiểm sát viên độc lập, không bị ảnh hưởng bởi các cơ quan và cá nhân khác thuộc cơ cấu quyền lực nhà nước hoặc quản lý nhà nước và chỉ tuân theo pháp luật. Cấm tất cả các cơ quan: Quốc hội, Nội các, các cơ quan nhà nước, các cơ quan tự quản địa phương, các quan chức nhà nước và viên chức tự quản địa phương, các doanh nghiệp, các tổ chức và mọi cá nhân can thiệp và công việc của VKS trong quá trình điều tra vụ án và thực hiện các chức năng khác của VKS” (Điều 6).
Chính vì vậy, tính độc lập của Viện kiểm sát trong hoạt động tư pháp cần được đảm bảo và thể hiện rõ ràng, thống nhất trong các quy định của pháp luật.
1.2. Quy định thống nhất, cụ thể về phối hợp giữa Viện kiểm sát và cơ quan điều tra trong hoạt động hỏi cung bị can:
Hiện tại, đã có những văn bản pháp luật quy định phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng. Tuy nhiên, còn một vài bất cập do những quy định này chưa cụ thể, có tính ràng buộc thực hiện; gây hạn chế trong việc phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra. Chính vì vậy, tôi xin đề xuất cần có quy định cụ thể hơn về trách nhiệm, nghĩa vụ của Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra đối với từng hoạt động của tố tụng nói chung và đối với hoạt động hỏi cung bị can nói riêng. Đặc biệt để ràng buộc cần có quy định về chế tài nếu các bên không thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình.
1.3. Quy định về hình thức pháp lý của Biên bản hỏi cung:
Để hạn chế vi phạm về hình thức pháp lý của Biên bản hỏi cung bị can như việc không thống nhất về thời gian, diễn biến của hoạt động hỏi cung bị can dẫn đến khó khăn trong việc nắm bắt tình tiết vụ án, đánh giá hành vi phạm tội của bị can thì cần quy định cụ thể về Biên bản hỏi cung cần phải tuân thủ về hình thức pháp lý. Đối với các trường hợp bị can không nhận tội, cần phải nghiên cứu kỹ tại các biên bản hỏi cung bị can, bị can khai báo những gì, bị can thực sự không nhận tội hay chỉ khai báo quanh co về hành vi phạm tội, bản cung do Điều tra viên nào ghi, cách Điều tra viên đặt câu hỏi và cách bị can trả lời như thế nào. (Cũng có trường hợp Điều tra viên ghi không thoát ý, không làm rõ được lời khai của bị can chứ không phải bị can không nhận tội ) nếu bị can không nhận tội thì tại sao, bị can lý giải như thế nào trong bản cung liên hệ giữa nội dung bản cung với các tài liệu khác có trong vụ án để xác định việc không nhận tội của bị can là đúng do bị can là người không thực hiện hành vi phạm tội hay bị can khai báo ngoan cố trốn tránh pháp luật để có hướng xử lý. Đối với Kiểm sát viên, Kiểm sát viên khi nghiên cứu các nội dung biên bản hỏi cung bị can phải chú ý đến trình tự thời gian, đọc các bản cung bị can theo thứ tự lấy cung để thấy được quá trình diễn biến tâm lý của bị can trong quá trình khai báo. Qua đó cũng phát hiện ra những vi phạm của cơ quan điều tra trong việc hỏi cung bị can.
2. Giải pháp khắc phục nguyên nhân chủ quan:
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Viện kiểm sát:
Một vấn đề quan trọng khi muốn nâng cao vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động hỏi cung bị can, đó là nâng cao chất lượng của hoạt động hỏi cung bị can của Viện kiểm sát nhằm hạn chế những sai sót không đáng có, nâng cao lòng tin của nhân dân đối với những quyết định của Viện kiểm sát.
- Nâng cao trình độ, kỹ năng của đội ngũ Kiểm sát viên để có thể nắm bắt được những vi phạm trong hoạt động hỏi cung bị can của Cơ quan điều tra:
Khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải xác định đối tượng có đúng bị can cần xét hỏi không (thông qua việc kiểm tra căn cước, lý lịch đã được lập trong hồ sơ vụ án). Giải thích cho bị can biết các quyền và nghĩa vụ của họ. Nếu hỏi hỏi cung bị can có người phiên dịch, người giám hộ, người bào chữa thì Kiểm sát viên cũng phải giải thích quyền và nghĩa vụ của những người này rồi mới tiến hành hỏi cung bị can.
Trước khi hỏi cung Kiểm sát viên còn phải nghiên cứu kỹ nội dung vụ án. Nội dung các biên bản hỏi cung bị can mà Điều tra viên đã thu thập và so sánh nội dung các biên bản hỏi cung bị can đó có điểm gì mâu thuẫn về thời gian, địa điểm xảy ra sự việc phạm tội; giữa lời khai trong các biên bản hỏi cung bị can với các tang vật, tài vật đã thu thập hay với các chứng cứ khác, lời khai của các bị can khác, người bị hại có gì mâu thuẫn về tang vật, công cụ phương tiện gây án.
Từ việc nghiên cứu kỹ nội dung các bản cung do Điều tra viên thu thập, Kiểm sát viên sẽ phân tích và xác định mục đích hỏi cung bị can để giải quyết vấn đề gì. Hỏi về cái gì (Xây dựng hệ thống đề cương các câu hỏi) và cũng phải lưu ý đến các quyền của bị can được pháp luật bảo hộ như quyền được biết rõ mình bị khởi tố về tội gì, quyền tự bào chữa, quyền được đưa ra các chứng cứ và các yêu cầu để đảm bảo sự bình đẳng và tôn trọng quyền tự do của cá nhân công dân, tránh những vi phạm pháp luật không đáng có do ý thức chủ quan của Kiểm sát viên gây ra.
Trong quá trình hỏi cung bị can Kiểm sát viên không được áp đặt ý thức chủ quan của mình bắt buộc bị can phải khai báo. Kiểm sát viên có thể sử dụng các mâu thuẫn trong biên bản hỏi cung trước đó do Điều tra viên hỏi hay sử dụng các chứng cứ mà Điều tra viên đã thu thập được để đấu tranh, lật tẩy hành vi khai báo gian dối hoặc không chịu khai báo của bị can.
Trong trường hợp bị can cố tình không khai báo, khai báo quanh co không nhận tội hoặc không thành khẩn thì Kiểm sát viên cần phải nghiên cứu kỹ lý do tại sao bị can không nhận tội, liên hệ giữa nội dung bản cung với các tài liệu khác có trong vụ án để xác định việc không nhận tội của bị can là đúng do bị can là người không thực hiện hành vi phạm tội hay bị can khai báo ngoan cố trốn tránh pháp luật. Kiên trì, kết hợp nhu, cương vận dụng linh hoạt các phương pháp, chiến thuật hỏi cung bị can và kinh nghiệm sống để đấu tranh giải thích và thuyết phục bị can khai.
Kết thúc buổi hỏi cung Kiểm sát viên phải lập biên bản hỏi cung bị can và đọc lại nội dung biên bản hỏi cung cho bị can nghe và ký tên xác nhận (nếu bị can không biết chữ thì điểm chỉ). Có điểm nào bị can không nhất trí với bản cung đã ghì thì phải sửa chữa lại sau đó bị can và Kiểm sát viên cùng ký xác nhận vào bản cung.
Quá trình hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải tuân thủ các nguyên tắc:
Thứ nhất: Tính kiên quyết: Kiểm sát viên phải tích cực, sáng tạo và linh hoạt trong quá trình hỏi cung. Kiểm sát viên phải biết vận dụng một cách linh hoạt trên cơ sở phù hợp với các yêu cầu của pháp luật, những thủ thuật và những chỉ dẫn về chiến thuật để đạt được mục đích hỏi cung ban đầu đã đề ra.
Đối với những bị can từ chối khai báo hoặc khai báo gian dối thì quá trình hỏi cung phải diễn ra liên tục. Kiểm sát viên hỏi cung bị can không chỉ đơn thuần là ghi chép lời khai bị can mà phải linh hoạt áp dụng các thủ thuật, chiến thuật, phương tiện được pháp luật cho phép đấu tranh với bị can buộc bị can phải khai báo thành khẩn đúng sự thật hành vi phạm tội đã xẩy ra. hỏi cung bị can .
Thứ hai: Tỉnh thận trọng: Hoạt động hỏi cung bị can phải được tiến hành theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định. Nghiên cứu kỹ những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tài liệu khác có ý nghĩa đối với hoạt động hỏi cung. Luôn tạo cho mình một thế chủ động, sáng tạo, linh hoạt hỏi cung bị can trong từng tình huống cụ thể để hỏi cung bị can một cách đầy đủ, chính xác và khách quan nhất. Tuyệt đối không được tiết lộ mục đích hỏi cung cho bị can biết để bị can có hình thức đối phó hoặc từ chối không chịu khai báo.
Thứ ba: Tỉnh khách quan: Trong quá trình hỏi cung Kiểm sát viên phải chú ý hỏi về các chứng cứ xác định có tội và cả các chứng cứ xác định gỡ tội, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Các biên bản hỏi cung bị can Kiểm sát viên không có quyền tự sửa chữa, tẩy xóa hoặc ghi thêm nội dung phù hợp với suy luận của mình và áp đặt cho bị can những quan điểm chủ quan đó. Và cũng để đảm bảo tính khách quan trọng hỏi cung bị can Kiểm sát viên không được đưa ra những câu hỏi có tính chất chỉ dẫn vào trong biên bản, phải ghi đúng từng chữ theo lời khai của bị can
Thứ tư: Tính toàn diện: Quá trình hỏi cung bị can Kiểm sát viên phải vận dụng tất cả những hiểu biết của bị can về vụ án, về hành vi phạm tội của bị can và những tin tức tài liệu khác mà bị can biết có ý nghĩa đối với vụ án.
- Ngoài ra, để nâng cao chất lượng hoạt động hỏi cung bị can Kiểm sát viên cần:
– Thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ ngay từ giai đoạn có nguồn tin báo về tội phạm để phân loại, xử lý chặt chẽ; đến giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án, Kiểm sát viên cần theo sát tiến trình điều tra của Cơ quan điều tra cả trên hồ sơ lẫn hoạt động điều tra thực tế; kịp thời đề ra bản yêu cầu điều tra và kiểm tra việc thực hiện, thường xuyên sơ kết điều tra, đánh giá tiến trình điều tra và phối hợp với Cơ quan điều tra để xử lý nhanh, kịp thời các vướng mắc về các tài liệu, chứng cứ trong quá trình điều tra. Khi Kiểm sát viên nắm chắc nội dung, tình tiết, chứng cứ của vụ án… làm tiền đề xây dựng kế hoạch, phương pháp phù hợp, thực hiện hoạt động hỏi cung bị can trong giai đoạn truy tố.
– Gắn trách nhiệm nghề nghiệp với từng bị can trong từng vụ án cụ thể, có vậy Kiểm sát viên mới thấy được tầm quan trọng của công việc, tầm quan trọng của việc truy tố, buộc tội đúng hay sai một con người và hệ quả của nó.
Do đó, việc nâng cao nhận thức, có ý thức trách nhiệm khi được phân công thụ lý, giải quyết vụ án là rất quan trọng; tạo tiền đề, từng bước xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên có năng lực, bản lĩnh, có tầm và có tâm với nghề. Thực hiện tinh thần kiên quyết, thận trọng, khách quan và toàn diện trong hỏi cung bị can có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động điều tra vụ án hình sự, giúp cho Điều tra viên. Xây dựng được tính kiên quyết trong hỏi cung bị can, không có tư tưởng ngại khó, khi được phân công điều tra, hỏi cung đối với bất cứ bị can nào. Nêu cao cảnh giác trong quá trình hỏi cung bị can, không dễ tin bất cứ một lời khai nào của bị can khi lời khai đó chưa được kiểm tra xác minh… Xây dựng tư duy khách quan khoa học, dám đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ sự thật. Nâng cao trình độ nghiệp vụ, tôn trọng pháp luật. Để thực hiện tốt chiến thuật trên cán bộ hỏi cung bị can cần phải có ý thức cầu toàn, phải khách quan, thận trọng tuyệt đối không được có thái độ chung chung, làm theo ý chủ quan của mình để tránh bỏ lọt tội phạm làm oan người vô tội.
– Tăng cường công tác phối kết hợp với Cơ quan điều tra và các cơ quan hữu quan khác, từ đó tạo hành lang pháp lý “nội bộ” phối hợp chặt chẽ, kịp thời trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án; làm cơ sở cho hoạt động hỏi cung bị can trong giai đoạn truy tố của Kiểm sát viên đạt hiệu quả cao hơn.
– Chú trọng việc nghiên cứu, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ về các văn bản luật, dưới luật có liên quan để phục vụ công tác; có nắm được các quy định của pháp luật mới thực hiện được chức năng, nhiệm vụ nói chung và hoạt động hỏi cung bị can trong giai đoạn truy tố nói riêng đạt hiệu lực, hiệu quả cao.
– Trước khi tiến hành hoạt động hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải luôn luôn có kế hoạch, có phương pháp, có các dự kiến tình huống phát sinh và nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; có làm tốt công tác chuẩn bị mới hỗ trợ Kiểm sát viên thêm tự tin, bản lĩnh và không bị lúng túng khi hỏi cung, nhất là đối với bị can ranh mãnh, tinh vi, bị can là người có chức vụ, quyền hạn, có địa vị trong xã hội.
– Kiểm sát viên phải luôn chủ động, nắm tiến trình điều tra, thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra xuyên suốt vụ án; tránh ý thức chủ quan, thụ động, chờ hồ sơ đến rồi mới nghiên cứu thì chưa thể phát hiện, dữ liệu được hết những nội dung, yêu cầu về tài liệu, chứng cứ cần phải sửa chữa, bổ sung hoặc củng cố kịp thời để truy tố.
Cán bộ, KSV cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, ý nghĩa của mối quan hệ phối hợp giữa VKSND và CQĐT trong đấu tranh phòng, chống tội phạm để có biện pháp tăng cường, xây dựng và đổi mới quan hệ phối hợp với nhiều hình thức trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành. Các đơn vị VKS cần chủ động trong quan hệ phối hợp với CQĐT để khắc phục tình trạng thụ động; nghiêm chỉnh thực hiện các quy định của pháp luật về quan hệ giữa VKS với CQĐT trong hoạt động điều tra hình sự; Quy chế phối hợp 3 ngành Công an, Viện kiểm sát, Tòa án trong giải quyết án hình sự, thi hành án hình sự. Viện kiểm sát hai cấp (tỉnh, huyện) cần tăng cường phối hợp với Cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đến quá trình xét xử các vụ án hình sự.
– Viện kiểm sát chủ động rà soát, bổ sung, chủ trì xây dựng quy chế phối hợp trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự bảo đảm thực hiện tốt quy định của pháp luật, chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan, mỗi ngành trong công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm.
– Trong quan hệ phối hợp, Viện kiểm sát nhân dân vừa là Cơ quan phê chuẩn các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra, mọi quyết định của Viện kiểm sát có tác động rất lớn đến hoạt động điều tra và tâm lý của Điều tra viên, đòi hỏi khi quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định tố tụng của Cơ điều quan tra, Viện kiểm sát nhân dân phải cân nhắc thận trọng trên tinh thần khách quan, cầu thị. Hết sức tránh việc đổ lỗi, phê phán CQĐT, ĐTV trong các vụ án có thiếu sót về chứng cứ, hay vi phạm về thủ tục tố tụng phải trả hồ sơ trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
– Trong thực hiện các công tác cụ thể, như Kiểm sát tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố Viện kiểm sát nhân dân hai cấp (tỉnh, huyện) cần phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra nắm chắc tình hình tố giác, tin báo về tội phạm, tăng cường trách nhiệm và nâng cao hơn nữa chất lượng phân loại, xử lý; theo dõi, đôn đốc việc việc xác minh, giải quyết của Cơ quan điều tra, thực hiện đúng Điều 103 Bộ luật Tố tụng hình sự và Thông tư số 06/TTLT của Liên ngành tư pháp Trung ương.
– Trong công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự cần thực hiện nghiêm túc, đồng bộ các biện pháp cụ thể trong Chỉ thị số 06/CT-VKSTC của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chú ý thực hiện tốt những vấn đề trọng tâm sau: Thứ nhất, kiểm sát chặt chẽ việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can; kiên quyết thận trọng, không chấp nhận việc khởi tố vụ án mà không có căn cứ và trái pháp luật; từ chối phê chuẩn các quyết định khởi tố bị can không có căn cứ pháp luật. Thứ hai, kiểm sát chặt chẽ việc áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, nhất là các biện pháp tạm thời hạn chế quyền tự do, dân chủ công dân của người bị tạm giữ, tạm giam, bị bắt và các biện pháp cưỡng chế. Thứ ba, bám sát các hoạt động điều tra, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, nhất là khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét và hỏi cung bị can. Thứ tư, trước khi kết thúc điều tra phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chủ động phối hợp chặt chẽ với ĐTV rà soát, đánh giá chứng cứ và các thủ tục, biện pháp tố tụng đã áp dụng xem đã đúng quy định pháp luật hay chưa. Thứ năm, phối kết hợp để quản lý chặt chẽ việc thụ lý, giải quyết các vụ án, không để án tồn đọng, kéo dài hoặc không có quyết định xử lý.
- Ngoài ra, cần chú ý đến những kỹ năng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án để phục vụ hoạt động hỏi cung:
Một là, đối với các tài liệu đọc được, cần đọc chậm, đọc kỹ và đọc nhiều lần cùng một tài liệu, cần thiết có thể gạch chân những câu, chữ hoặc đoạn văn cần lưu ý; Kiểm sát viên tránh đọc qua loa, đại khái các tài liệu, nhất là các tài liệu chữ xấu, khó hiểu hoặc bản photo bị mờ,… thì sẽ không thể hiểu hết ý nghĩa của câu, chữ hoặc bỏ sót những nội dung quan trọng trong tài liệu; trường hợp này Kiểm sát viên có thể linh hoạt mời người cung cấp tài liệu giải thích, làm rõ nội dung.
Hai là, đối với các tài liệu nghe được (băng, đĩa, ghi âm, các thiết bị điện tử): Kiểm sát viên cần phối hợp hài hòa giữa việc nghe kết hợp với việc đọc (nói) của tài liệu được nghe; khi nghe, cần chú ý đến thời gian diễn ra sự kiện, những người (nhân vật) tham gia sự kiện, nơi diễn ra sự kiện, nội dung cuộc nói chuyện,.. trong trường hợp nghe không rõ, không hiểu vì dùng từ địa phương…. thì cần phối hợp với người cung cấp tài liệu nghe được giải thích, làm rõ.
Ba là, đối với tài liệu nhìn được (hình ảnh, đĩa ghi hình, băng ghi hình, các thiết bị điện tử ghi hình khác hoặc hiện vật), trong một số trường hợp, người tham gia tố tụng cung cấp tài liệu là hình ảnh hoặc vật chứng để chứng minh cho yêu cầu của mình nên Kiểm sát viên không được xem nhẹ những tài liệu này, mà việc nhìn tài liệu hoặc hiện vật cũng cần kết hợp với việc đọc tài liệu để có thể hiểu được ý nghĩa, giá trị của hình ảnh, hiện vật đó; kết hợp hình ảnh và tài liệu khác, đối chiếu, so sánh với nhau để tìm sự mâu thuẫn và đồng nhất.
Bốn là, việc ghi chép, đánh dấu tài liệu, trong nhiều trường hợp, Kiểm sát viên phải thụ lý, giải quyết nhiều vụ án, nhiều hồ sơ cùng lúc; đặc biệt là các hồ sơ vụ án phức tạp, có lượng tài liệu lớn thì việc ghi chép những thông tin cần chú ý khi đọc tài liệu như: Tên tài liệu, số bút lục và những thông tin cần thiết là rất quan trọng; nếu việc ghi chép phục vụ dễ dàng việc tra cứu hồ sơ thì việc đánh dấu tài liệu để phục vụ tìm kiếm tài liệu trong hồ sơ hoặc một nội dung nào đó trong một tài liệu trong hồ sơ,… nhằm giúp nâng cao hiệu quả nghiên cứu hồ sơ vụ án cũng như nâng cao hiệu quả giải quyết vụ án.
Năm là, việc so sánh, đối chiếu tài liệu trong quá trình giải quyết vụ hình sự, Cơ quan điều tra thu thập rất nhiều tài liệu trong hồ sơ, nhưng một số trường hợp không phải tất cả các tài liệu đó cũng là tài liệu có thể sử dụng làm chứng cứ nếu không tuân thủ trình tự, thủ tục thu thập theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, việc so sánh, đối chiếu tài liệu là so sánh giữa tài liệu này với tài liệu khác hoặc giữa tài liệu bản chính với bản sao chép lại,… giúp Kiểm sát viên đánh giá chính xác nội dung của tài liệu cũng như phát hiện các mâu thuẫn trong nội dung của tài liệu.
Sáu là, việc phân tích tài liệu, trong vụ án hình sự việc phân tích các tài liệu, chứng cứ thu thập được luôn luôn phải thực hiện, việc phân tích các tài liệu có thể sẽ tìm thấy được những tài liệu có thể bị xóa, cạo, sửa hoặc bị chèn lên,…; trong trường hợp này, Kiểm sát viên phải tìm hiểu, phân tích cho ra là việc xóa, cạo, sửa, chèn lên tài liệu do ai làm?; mục đích là gì và có lợi gì với người đó?; nội dung bị xóa, cạo, sửa, chèn lên là gì?; có cần thiết phải giám định hay không?,… vì vậy, Kiểm sát viên phải phân tích kỹ, đánh giá kỹ các tài liệu mà Cơ quan điều tra thu thập được, để thấy được nội dung của tài liệu, của hồ sơ vụ án cũng như thấy rõ được bản chất của sự việc.
Ngoài ra, sau khi xét hỏi xong, phát hiện những vấn đề gì mới, chứng cứ mới hay có những chứng cứ mới phát sinh theo hai hướng:
+ Củng cố và làm rõ hành vi phạm tội một cách chắc chắn.
+ Phát hiện những tình tiết làm thay đổi nội dung vụ án hay có chứng cứ cho rằng lọt tội, không đúng tội danh hoặc oan sai thì phải có báo cáo chi tiết bằng văn bản cho Lãnh đạo để bàn biện pháp giải quyết (vận dụng các phương pháp xét hỏi được ghi rõ trong tạp chí Kiểm sát số 17/2016 từ trang 35-39 của tác giả Nguyễn Anh Tuấn) tuy nhiên để việc xét hỏi đạt kết quả tốt thì chúng ta phải vận dụng một cách linh hoạt các phương pháp, hình thức xét hỏi và chiến thuật hỏi cung, lấy lời khai một cách logic. Chú ý khoét sâu vào các mâu thuẫn để đấu tranh với bị can, nhân chứng, nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Trong tình hình tội phạm ngày càng diễn biến phức tạp, tinh vi, thủ đoạn và nguy hiểm; đòi hỏi mỗi Kiểm sát viên phải luôn nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm của mình khi giải quyết vụ án, nhất là việc thực hiện các kỹ năng nghiên cứu kỹ các hồ sơ vụ án, phải có sự đầu tư, tìm tòi, nghiên cứu để phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, xung đột trong hồ sơ vụ án, phục vụ tốt cho hoạt động hỏi cung bị can trong giai đoạn truy tố có hiệu quả, để xây dựng cáo trạng truy tố có chất lượng.
2.2. Nâng cao kiểm tra hoạt động hỏi cung bị can của Điều tra viên:
Hỏi cung bị can là một hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự do Điều tra viên (ĐTV) tiến hành sau khi có quyết định khởi tố bị can, nhằm mục đích thu thập các tình tiết liên quan đến nội dung vụ án, hành vi phạm tội của bị can và các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Do đó, để nâng cao chất lượng tố tụng nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng thì cần kiểm sát chất lượng hoạt động hỏi cung bị can của Điều tra viên thông qua: Biên bản hỏi cung và kiểm sát trực tiếp hoạt động hỏi cung của Điều tra viên
2.2.1. Kiểm sát thông qua biên bản hỏi cung:
Kiểm sát vấn đề về trình tự, thủ tục, hình thức
Kiểm sát về thể thức biên bản hỏi cung có được lập theo đúng biểu mẫu quy định không? Kiểm sát về chủ thể thực hiện hỏi cung bị can có đúng không? ĐTV tiến hành hỏi cung bị can phải là người được Thủ trưởng Cơ quan điều tra (CQĐT) phân công bằng quyết định tố tụng.
Kiểm sát về ghi ngày, giờ, địa điểm thực hiện hoạt động hỏi cung của ĐTV. Biên bản hỏi cung bị can phải được ghi giờ bắt đầu hỏi cung, giờ kết thúc. Việc ghi đầy đủ, chính xác ngày, giờ hỏi cung còn có ý nghĩa rất quan trọng khi kiểm sát hoạt động của ĐTV tuân thủ quy định của BLTTHS trong những trường hợp tiến hành hỏi cung bị can vào ban đêm (từ 22 giờ đến 06 giờ sáng hôm sau), trường hợp không thể trì hoãn thì ghi rõ lý do vào biên bản. Bên cạnh đó, khi nghiên cứu lời khai theo tuần tự thời gian sẽ đánh giá được diễn biến tâm lý của bị can, có bị can giai đoạn đầu quanh co chối tội nhưng giai đoạn sau lại khai báo trung thực, thành khẩn hoặc ngược lại.
Kiểm sát các thông tin về căn cước lý lịch của bị can ghi trong biên bản, như: Tên, tuổi, quê quán, dân tộc, nghề nghiệp.., của bị can đều phải được kiểm tra tính chính xác, phải có sự thống nhất với danh, chỉ bản của bị can, với các biên bản hỏi cung khác, với các văn bản tố tụng đã được lập như biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, biên bản bắt khẩn cấp, lệnh tạm giam…, đây là những thông tin bắt buộc để xác định chính xác chủ thể đã thực hiện hành vi phạm tội, tránh nhầm lẫn về con người; nhất là phần liên quan đến xác định tiền sự, tiền án của bị can, phần lý lịch trong các tài liệu như bản án cũ, quyết định xử phạt hành chính đều phải trùng khớp với lý lịch hiện tại của bị can thì mới có căn cứ để xác định được chính xác nhận thân của bị can là tốt hay xấu, hoặc xác định tái phạm hay tái phạm nguy hiểm. Nếu phát hiện có sự khác nhau, KSV cần phải yêu cầu ĐTV có biện pháp xác minh ngay, xác định nguyên nhân tại sao lại có những khác nhau đó, kết quả xác minh phải chốt được lý lịch nào là chính xác để có căn cứ loại bỏ những lý lịch còn lại, điều chỉnh chính xác với danh bản, chỉ bản; bởi lẽ, trong các vụ án hình sự, người phạm tội có thể bị áp dụng mức án cao nhất đến tử hình thì lý lịch và danh bản, chỉ bản phải có sự thống nhất và chính xác gần như tuyệt đối, có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi thi hành án về sau này.
Kiểm sát về thực hiện các quyền của bị can nhằm đảm bảo các quyền
và lợi ích hợp pháp của bị can theo quy định của pháp luật thì khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải giải thích về quyền, nghĩa vụ của bị can. Việc giải thích này phải được ghi vào biên bản hỏi cung, nhất là bản hỏi ngay sau khi bị can đã được tống đạt quyết định khởi tố bị can và quyết định cung đầu tiên phê chuẩn khởi tố bị can của Viện kiểm sát. Do vậy, nếu qua kiểm sát các bản cùng của bị can mà CQĐT chuyển tới, nếu không có việc giải thích về quyền, nghĩa vụ này thì KSV phải có văn bản yêu cầu CQĐT, ĐTV triển khai thực hiện bằng biên bản hỏi cung khác, mà phải thực hiện ngay; đồng thời, cần tập hợp để có kiến nghị với CQĐT về việc thực hiện chưa được nghiêm túc quy định của BLTTHS. Trong các trường hợp bị can là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, bị can là người không biết chữ, bị can là người dân tộc ít người hoặc người nước ngoài không biết tiếng Việt, người đang bị điều tra về hành vi phạm tội có khung hình phạt cao nhất đến chung thân hoặc tử hình thì những trường hợp này phải có sự tham gia của người giám hộ, Luật sư, người phiên dịch. Nếu không thực hiện là vi phạm tố tụng, quyền của bị can không được đảm bảo, các biên bản hỏi cung này sẽ không thể thành chứng cứ để buộc tội đối với bị can cho dù nó có thể phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Tuy nhiên, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa nhưng cần phải ghi rõ vào biên bản để chứng minh quyền của bị can đã được cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện đầy đủ.
Kiểm sát về thực hiện hình thức của biên bản theo quy định của pháp
luật. Khi ghi chép nội dung biên bản hỏi cung, ĐTV chỉ được sử dụng một màu mực, những phần nội dung bị tẩy xóa cần được bị can ký xác nhận; phần giấy trắng còn thừa phải được gạch bỏ; kết thúc buổi hỏi cung, ĐTV đọc lại cho bị can và những người tham gia tố tụng nghe về nội dung biên bản đã lập hoặc để cho bị can, người phiên dịch, Luật sư tự đọc lại biên bản, sau đó bị can phải ký xác nhận vào từng trang của biên bản, nhất là ký tại các phần giáp lai giữa các trang; người phiên dịch, Luật sư, người giám hộ khi tham gia vào hoạt động hỏi cung cũng phải ký xác nhận vào từng trang của biên bản; ĐTV thực hiện hỏi cung, người ghi biên bản giúp cho ĐTV cũng ký tên, chữ ký của ĐTV phải được đóng dấu của CQĐT nơi ĐTV đang công tác theo quy định về trách nhiệm của ĐTV trong việc sử dụng các biểu mẫu tố tụng và con dấu
Kiểm sát về nội dung của biên bản hỏi cung
Khi kiểm sát nội dung của biên bản cung, KSV phải nghiên cứu, tổng hợp toàn bộ nội dung các biên bản hỏi cung do ĐTV lập. Yêu cầu của hoạt động kiểm sát này đòi hỏi mỗi KSV phải có sự nhanh nhạy, có khả năng tổng hợp và phân tích để tóm lược được các vấn đề cốt lõi của vụ án, xây dựng thành nội dung vụ án, mô tả được diễn biến về hành vi phạm tội đã xảy ra; cần phải làm rõ được diễn biến về hành vi phạm tội của bị can, bị can thực hiện hành vi phạm tội đó như thế nào? Thực hiện một mình hay có đồng phạm? Trước khi thực hiện hành vi phạm tội thì có sự bàn bạc, thống nhất về phương thức, thủ đoạn thực hiện tội phạm và che giấu hành vi phạm tội hay không? đặc điểm nhận biết ra sao? Số lần thực hiện hành vi phạm tội? thời gian, địa điểm cụ thể của từng lần thực hiện hành vi phạm tội; người thực hiện hành vi phạm tội có lỗi hay không có lỗi, cố ý hay vô ý? Chú ý những dấu hiệu đặc biệt trong vụ án như việc các bị can sử dụng ám hiệu nhận biết với nhau như thế nào khi giao dịch, điều này rất có ý nghĩa đối với các vụ án khám phá nhờ hoạt động “truy xét”, KSV cần đối chiếu nội dung của các biên bản hỏi cung với nhau và với các nội dung có trong các tài liệu khác để phát hiện ra các vấn đề còn mâu thuẫn trong lời khai, những vấn đề chưa được làm rõ. Qua đó, đánh giá hoạt động hỏi cung của ĐTV đã thực sự có chất lượng chưa, việc hỏi cung bị can có thu lại được những kết quả như mong muốn không? ĐTV đã sử dụng hợp lý các chiến thuật hỏi cung và phương pháp hỏi chưa? Điều này đòi hỏi người KSV phải thật sự tỉ mỉ, cẩn trọng nghiên cứu đối chiếu giữa các bản cùng với nhau để phát hiện ra những vi phạm…
Sau khi kiểm sát nội dung các biên bản hỏi cung, KSV nếu phát hiện thấy những vấn đề gì còn mâu thuẫn trong lời khai của bị can với các đối tượng khác, những vấn đề gì chưa được làm rõ, nhất là về hành vi phạm tội của bị can, những vấn đề đã được KSV đề ra trong yêu cầu điều tra rồi mà ĐTV vẫn chưa thực hiện thì KSV phải tiếp tục đề ra yêu cầu điều tra, trong đó nêu lại cả những nội dung đã yêu cầu mà ĐTV chưa thực hiện và nội dung yêu cầu mới gửi cho ĐTV thực hiện.
2.2.2. Kỹ năng kiểm sát trực tiếp hoạt động hỏi cung của Điều tra viên:
Khác với hoạt động kiểm sát thông qua các biên bản hỏi cung (kiểm sát gián tiếp) thì KSV có quyền tham gia kiểm sát trực tiếp hoạt động hỏi cung của ĐTV theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, khi thực hiện nhiệm vụ này, KSV phải nhận thức rõ về vị trí, vai trò của mình theo quy định của Luật Tổ chức VKSND và BLTTHS; KSV là người được pháp luật trao quyền để giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động tố tụng của ĐTV khi tiến hành hỏi cung bị can (đó là nội dung của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự), do vậy, KSV không nên quá sa đà, chú trọng vào việc trực tiếp hỏi bị can, không khéo sẽ trở thành người làm thay nhiệm vụ của ĐTV, phá vỡ mất các chiến thuật, phương pháp đấu tranh với bị can mà ĐTV đang sử dụng, KSV chỉ nên đặt câu hỏi khi ĐTV đã hỏi xong mà còn có vấn đề chưa được làm rõ, còn mâu thuẫn, hoặc còn bỏ ngỏ…, từ đó cần lưu ý một số kỹ năng khi tiến hành hoạt động kiểm sát như sau:
– Công tác chuẩn bị
Trước khi tiến hành hoạt động kiểm sát, KSV phải chủ động nghiên cứu hồ sơ, tài liệu trong vụ án, có những nhận xét, đánh giá sơ bộ về những tài liệu, chứng cứ đã thu thập, việc thu thập các tài liệu đó có đúng trình tự, thủ tục tố tụng không? Ý nghĩa của các tài liệu trong việc chứng minh tội phạm? xác định những vấn đề chưa được làm rõ, những vấn đề còn mâu thuẫn cần phải triệt tiêu, những vấn đề đã có manh mối nhưng còn bỏ ngỏ cần phải tiếp tục đấu tranh với bị can.
Nắm rõ nội dung diễn biến của vụ án, loại và đặc điểm vật chứng đã thu giữ; thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội và phương thức che giấu để tránh bị phát hiện của bị can.
Nắm rõ những thông tin về lai lịch của bị can, về những mối quan hệ gia đình, quan hệ xã hội thông thường, quan hệ với các đối tượng khác trong đường dây tội phạm có gì đặc biệt, có ý nghĩa trong đấu tranh với các bị can khác trong cùng vụ án; xác định vai trò của bị can trong vụ án.
Xây dựng kế hoạch, nội dung cho buổi làm việc, nên chủ động trao đổi với ĐTV về kế hoạch tiến hành hỏi cung; nội dung hỏi cung; phương pháp hỏi cung sẽ được sử dụng; KSV phải luôn thận trọng trong cả trường hợp bị can nhận tội, cũng như các trường hợp bị can chối tội, không khai báo hành vi phạm tội đồng thời kêu oan. Khi bị can nhận tội thì những lời khai của bị can có phù hợp với lời khai của những người làm chứng và vật chứng đã thu giữ trong vụ án không? Đối với bị can chối tội thì cũng phải xác định nguyên nhân của việc không khai báo các chứng cứ khác để chứng minh nhằm buộc tội bị can có đủ căn cứ không? Có đảm bảo tính khách quan không đối với các chứng cứ sẽ được đưa ra sử dụng để đấu tranh, buộc tội bị can…
Chuẩn bị các tình huống có Luật sư tham gia và có thể đề nghị được đặt câu hỏi đối với thân chủ của mình (tức bị can trong vụ án) thì phải giải quyết như thế nào?
Trong các trường hợp bị can là người không biết chữ, người nước ngoài, người dân tộc ít người không biết tiếng Việt, hoặc bị can có nhược điểm về thể chất như câm, điếc thì cần phải mời người phiên dịch tham gia buổi hỏi cung.
– Nội dung tiến hành
Khi tham gia kiểm sát việc hỏi cung bị can của ĐTV, KSV cần phải lưu ý quan sát không gian nơi tiến hành hỏi cung, tùy thuộc vào điều kiện thực tế KSV sẽ lựa chọn vị trí ngồi cho phù hợp làm sao có thể quan sát bao quát được toàn bộ hoạt động hỏi cung.
Kiểm sát việc ĐTV có kiểm tra lý lịch bị can để xác định chính xác người được hỏi cung có phải là bị can trong vụ án không? lý lịch này có giống với lý lịch được ghi trong tài liệu có trong hồ sơ vụ án không? chú ý về các tên đệm, ngày, tháng, năm sinh, tên bố, mẹ…
Kiểm sát việc ĐTV phải giải thích về quyền và nghĩa vụ cho bị can,
Kiểm sát việc ĐTV có kiểm tra về tình trạng sức khỏe của bị can, thời điểm hiện tại có đau ốm, bệnh tật gì không? Có đủ sức khỏe, tỉnh táo, minh mẫn để làm việc không?
Kiểm sát việc ĐTV giải quyết các đề nghị của bị can như thế nào? Có phù hợp và đúng với các quy định của pháp luật hay không?
Khi ĐTV hỏi KSV cần có sự quan sát thái độ của ĐTV; phương pháp hỏi cung mà ĐTV đang sử dụng; cách đặt câu hỏi của ĐTV có ngắn, rõ ràng không? trong câu hỏi có ẩn ý hoặc có sự ám chỉ ra hiệu về một vấn đề gì không?
Nội dung mà ĐTV hỏi có làm rõ được những vấn đề cần chứng minh trong vụ án không? nhất là các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản, đó là phải trả lời được các vấn đề sau: Bị can có thực hiện hành vi phạm tội không? nếu có thì thực hiện vào thời gian nào? địa điểm thực hiện hành vi phạm tội ở đâu? đối tượng phạm tội là gì? đặc điểm hình thức của vật chứng ra sao? phương thức thực hiện hành vi phạm tội, thủ đoạn che giấu như thế nào? động cơ, mục đích của bị can khi thực hiện hành vi phạm tội? bị can thực hiện hành vi phạm tội cùng với ai? đó là những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự.
Kiểm sát viên chú ý trường hợp buổi hỏi cung được thực hiện ghi âm thì nội dung vẫn phải được thể hiện bằng biên bản hỏi cung; khi kết thúc hỏi cung, ĐTV phải để bị can nghe lại nội dung và cùng đối chiếu với nội dung đã được thể hiện dưới dạng văn bản.
Kiểm sát viên cũng cần phải lưu ý phân định các trường hợp hỏi cung để đấu tranh mở rộng vụ án hay hỏi cung để làm rõ vấn đề nhằm triệt tiêu mâu thuẫn hoặc hỏi cung để chốt lại toàn bộ các vấn đề liên quan đến hành vi phạm tội của bị can (tổng cung) để có phương pháp kiểm sát cho phù hợp
Để hoạt động hỏi cung bị can được thực hiện đúng quy định của pháp luật bản thân mỗi Điều tra viên cần nắm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trong hoạt động hỏi cung bị can đó; nắm chắc những gì mình có thể làm, những gì mình không thể làm trong hoạt động này để tránh mắc phải sai lầm gây oan sai cho người vô tội. Kiểm sát viên cũng phải nâng cao kiểm tra quá trình thực hiện hỏi cung bị can của Điều tra viên để sớm phát hiện ra những sai phạm trong quá trình tố tụng nói chung và hoạt động hỏi cung bị can nói riêng.
2.3. Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho ngành kiểm sát:
Trong những năm qua VKSND tối cao đã quan tâm chỉ đạo các đơn vị chức năng tiến hành rà soát, kiến nghị bổ sung mức kinh phí đối với ngành Kiểm sát; thực hiện nhiều đề án Đề án về Tăng cường thực hiện đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, trụ sở làm việc cho ngành theo những nhiệm vụ cải cách tư pháp (Như đề án mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác nghiệp vụ; Đề án tin học hóa quản lý nhà nước trong ngành……Đề án xây mới, chống xuống cấp trụ sở làm việc của Viện kiểm sát các cấp…vv). Việc thực hiện Đề án tin học hoá quản lý nhà nước trong ngành Kiểm sát nhân dân, được các đơn vị chú trọng; VKSND tối cao và nhiều VKSND địa phương đã mở Trang thông tin điện tử nhằm đẩy mạnh tuyên truyền hoạt động của ngành Kiểm sát; Lắp đặt và đưa vào sử dụng tốt hệ thống truyền hình trực tuyến; xây dựng được chương trình truyền hình Kiểm sát nhân dân. Trang phục của ngành được chỉnh sửa, cải tiến phù hợp, bền đẹp…vv.
Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã chỉ rõ: “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế phân bổ ngân sách cho các cơ quan và hoạt động tư pháp theo hướng ngân sách tư pháp do Quốc hội phân bổ và giao cho các cơ quan tư pháp địa phương quản lý và sử dụng. Tiến tới từng bước xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan tư pháp khang trang hiện đại, đầy đủ tiện nghi. Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp….” Do đó, việc tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho ngành kiểm sát là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Cơ sở vật chất đầy đủ, trang thiết bị và phương tiện hiện đại sẽ đảm bảo chất lượng của hoạt động nghiệp vụ của cán bộ kiểm sát nên cần quan tâm đầu tư dụng cụ hỗ trợ, cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc cho các đơn vị kiểm sát, đặc biệt là sửa chữa, xây dựng mới các đơn vị đã xuống cấp hoặc quá chật chội không phù hợp với số lượng biên chế được giao. Tiếp tục áp dụng công nghệ hóa đối với các đơn vị trong công tác sử dụng, lưu trữ, chuyển báo cáo thống kê trong ngành. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn những khó khăn tồn đọng liên quan đến cơ sở vật chất của Viện kiểm sát như:
– Trụ sở làm việc của nhiều VKS địa phương, nhất là ở cấp huyện đã lạc hậu, xuống cấp nghiêm trọng; Quy mô, kiến trúc nhỏ hẹp, thiếu diện tích làm việc; không có kho lưu trữ, nhà công vụ.
Kinh phí để bảo đảm hoạt động của ngành Kiểm sát còn thấp so với yêu cầu thực tế; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc của VKS các cấp tuy đã được quan tâm hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu;
– Công tác quy hoạch đất đai xây dựng trụ sở; hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan tư pháp chưa được Ban chỉ đạo cải cách tư pháp các cấp quan tâm chỉ đạo.
Đời sống của cán bộ trong ngành còn khó khăn nhất là những người không được hưởng phụ cấp chức danh pháp lý và thâm niên nghề; Các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, Kiểm sát viên trong ngành còn hạn chế, nên chưa thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao. Hệ thống thư điện tử nội bộ của ngành và phần mềm quản lý án hình sự đã được triển khai thực hiện, nhưng chưa ổn định và hiệu quả.
Do đó, cần có những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cơ sở vật chất, trang thiết bị của Viện kiểm sát như:
Thứ nhất: Tiếp tục thực hiện có hiệu quả NQ 49 về “Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động tư pháp” tập trung cho các dự án xây dựng cơ bản, nhất là các đơn vị mới thành lập, các địa điểm dự kiến đặt VKSND khu vực (Các trụ sở cơ quan có kiến trúc, kết cấu cũ lạc hậu cần dỡ bỏ xây mới, không nên sửa chữa nâng cấp gây lãng phí vì không đáp ứng được các định mức theo quy định).
Thứ hai: Nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền quan tâm hơn đến việc quy hoạch đất đai xây dựng trụ sở làm việc, nhà công vụ; hỗ trợ kinh phí cho các cơ quan tư pháp từ nguồn thu ngân sách ở các địa phương như Nghị quyết 49 quy định;
Thủ ba: Tiếp tục đổi mới việc phân cấp quản lý ngân sách theo hướng tăng quyền chủ động cho các đơn vị trong việc lập dự toán, thanh quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí và tài sản phục vụ công tác chuyên môn nghiệp vụ;
Thứ tư: Đối với các tỉnh miền núi có điều kiện kinh tế chưa phát triển, khó khăn. Đề nghị có cơ chế chính sách đặc thù (tăng nguồn kinh phí chi thường xuyên);
Thứ năm: Tiếp tục nghiên cứu chính sách đãi ngộ trong ngành Kiểm sát, nhằm động viên cán bộ yêu tâm công tác, yêu ngành, yêu nghề và tạo sức hút đối với nguồn nhân lực có chất lượng cao
2.4. Đảm bảo quyền bào chữa của bị can trong hoạt động hỏi cung bị can:
Để đảm bảo quyền bào chữa của bị can trong hoạt động hỏi cung cân:
Một là, trong cuộc hỏi cung lần đầu tiên, Kiểm sát viên cần thiết phải tham gia kiểm sát việc hỏi cung của Điều tra viên, trừ trường hợp khách quan không thể tham gia thì phải tham gia ngay lần tiếp theo. Khi hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở Cơ quan điều tra có ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh, Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên giải thích đầy đủ quyền, nghĩa vụ của bị can theo Điều 60 BLTTHS 2015 và việc giải thích đó phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh và phải cho bị can ký xác nhận và ghi rõ bị can đã được giải thích quyền và nghĩa vụ đầy đủ.
Trong những lần hỏi cung tiếp theo, có thể hỏi tiếp bị can đã hiểu đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình chưa, nếu không nhớ có cần phải giải thích lại nữa không. Trường hợp bị can có ý kiến về việc thực hiện một trong những quyền quy định tại Điều 60 BLTTHS 2015 thì Điều tra viên phải có biện pháp bảo đảm cho họ thực hiện theo quy định của pháp luật. Có như vậy, việc giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can mới được thực hiện một cách trọn vẹn và hiệu quả nhất.
Hai là, biện pháp bảo đảm quyền yêu cầu của bị can khi hỏi cung. Trước khi hỏi cung bị can, Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên thông báo rõ cho họ biết việc hỏi cung được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định của pháp luật để họ chuẩn bị về mặt tâm lý cũng như chủ động trong lời khai của mình và biết được việc ghi âm hoặc ghi hình này sẽ là chứng cứ đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa. Điều tra viên không được ghi âm hoặc ghi hình trong những trường hợp trái quy định như ghi âm hoặc ghi hình bằng hình thức không công khai, quay lén, tự ý cắt xén lời khai… và việc thông báo này phải được ghi vào biên bản hỏi cung bị can thì mới đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp hỏi cung bị can tại địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo quy định khi bị can có yêu cầu. Để bảo đảm quyền này, nếu hỏi cung ở địa điểm khác, bắt buộc Điều tra viên cần giải thích và hỏi rõ bị can có yêu cầu ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hay không. Nếu không giải thích đương nhiên là bị can không thể biết được quy định này, bởi Điều 60 BLTTHS 2015 chỉ quy định chung chung về quyền yêu cầu. Phải nhận thức rằng, trong trường hợp cụ thể khi bị can yêu cầu phải ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì bắt buộc phải thực hiện, nếu không tiến hành ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì việc hỏi cung buộc phải dừng lại; nếu bị can đồng ý tiếp tục hỏi cung mà không cần ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh thì tiến hành hỏi cung bình thường và việc hỏi này bắt buộc phải ghi vào biên bản hỏi cung bị can.
Ba là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức để nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát viên về công tác hỏi cung, kiểm sát việc hỏi cung bị can là yêu cầu cấp thiết. Điều tra viên và Kiểm sát viên phải nắm vững được quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can khi tham gia hoạt động tố tụng hình sự. Đồng thời phải đổi mới nhận thức về bị can, phải tôn trọng và có biện pháp bảo đảm quyền của họ được thực hiện hiệu quả nhất, đây cũng là trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp hiện nay. Chúng ta sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để đấu tranh với tội phạm nhưng cũng phải tạo điều kiện thuận lợi để cho họ được thực hiện quyền của mình. Đây là một trong những giải pháp hữu hiệu cho công tác chống oan, sai và bỏ lọt tội phạm.
Ngoài ra, “Quyền im lặng” của người bị tạm giữ, tạm giam là “quyền con người” nhằm thể hiện sự đối xử công bằng giữa điều tra viên, các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều phương tiện, biện pháp đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Khái niệm “quyền im lặng” được hiểu là: “Quyền không có một hành động gì trước sự việc đáng lẽ phải có thái độ, phải có phản ứng”. Im lặng không chỉ không nói, không lên tiếng mà còn không hành động gì. BLTTHS 2015 mặc dù chưa trực tiếp quy định quyền im lặng nhưng đã ghi nhận quyền này thông qua một số quy định tại điểm e, khoản 1, điều 58, điểm c, khoản 2, điều 59, điểm d, khoản 1, điều 60, điểm h, khoản 2, điều 61. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị tạm giữ, người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải nhận mình có tội hoặc đưa ra lời khai chống lại chính mình. Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bi cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Họ có thể không buộc phải nhận mình có tội, không buộc phải khai báo trước cơ quan tiến hành TTHS. Thậm chí, ngay tại phiên tòa, bị cáo cũng được đảm bảo thực hiện quyền này. Một số vụ án xét xử gần đây đã thể hiện “Quyền im lặng” một cách hiệu quả. Tuy nhiên, không phải bị can nào cũng được phổ biến quyền và sử dụng quyền này. Chính vì vậy, cần phổ biến quyền này đến bị can trước khi tiến hành hỏi cung.
2.5. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong hoạt động hỏi cung bị can:
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp (tỉnh, huyện) tích cực tìm biện pháp đổi mới phương thức phối hợp giữa Viện kiểm sát với Cơ quan điều tra, xây dựng mối quan hệ thực chất, hiệu quả trên cở sở chức năng nhiệm vụ của mỗi ngành. Viện kiểm sát nhân dân hai cấp (tỉnh, huyện) cần chủ động trao đổi với với Cơ quan điều tra về những vướng mắc, bất cập trong Quy chế phối hợp đã ký kết phát sinh trong quá trình phối hợp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố và trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án để bổ sung, sửa đổi hoặc xây dựng mới quy chế cho phù hợp; tạo điều kiện thuận lợi để Điều tra viên, KSV làm tốt chức trách nhiệm vụ của mình.
Tích cực tranh thủ sự lãnh đạo của cấp ủy đảng địa phương trong quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tư pháp nói chung và quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra theo đúng tinh thần Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 07/7/2007 của Bộ Chính trị “Về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong công tác điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng”. Khi có khó khăn vướng mắc về đường lối xử lý các vụ án hình sự hoặc những vụ án nhạy cảm, phức tạp cần kịp thời báo cáo, đề nghị cấp ủy Đảng cùng cấp chủ trì cuộc họp lãnh đạo liên ngành tư pháp để thống nhất giải quyết.