Đặc điểm của biện pháp bảo đảm? Định giá tài sản bảo đảm theo quy định của Bộ Luật Dân sự?
Bộ luật dân sự hiện hành đã quy định những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, theo đó, khi các bên lựa chọn một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì giữa họ phát sinh một quan hệ pháp luật. Việc xác lập biện pháp bảo đảm giữa các chủ thể với nhau được thực hiện thông qua một giao dịch dân sự, vì thế giao dịch dân sự này dược gọi là giao dịch dân sự bảo đảm và quan hệ hình thành từ giao dịch bảo đảm sẽ được gọi là quan hệ bảo đảm. Pháp luật cũng quy định rất rõ về việc định giá tài sản bảo đảm. Vậy định giá tài sản bào đảm được quy định như thế nào? Bài viết dưới đây của Luật Dương Gia sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến: ” Định giá tài sản bảo đảm theo quy định của Bộ Luật Dân sự”
Luật sư
– Cơ sở pháp lý:
1. Đặc điểm của biện pháp bảo đảm.
Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm được thể hiện như sau:
Phụ thuộc vào nội dung, tính chất của từng quan hệ nghĩa vụ cụ thể, cũng như phụ thuộc vào điều kiện của các chủ thể tham gia quan hệ ấy mà mỗi một biện pháp bảo đảm mang một đặc điểm riêng biệt. Ngoài ra, tất cả các biện pháp bảo đảm đều có các đặc điểm chung sau đây:
– Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm mang tính chất bổ cho nghĩa vụ chính sung. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không tồn tại độc lập mà luôn phụ thuộc và gắn liền với một nghĩa vụ nào đó. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ khi có quan hệ nghĩa vụ chính thì các bên mới cùng nhau thiết lập một biện pháp bảo đảm Nghĩa là việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không tồn tại một cách độc lập. Nội dung, hiệu lực của biện pháp bảo đảm phù hợp và phụ thuộc vào nghĩa vụ chính. Vì vậy, người ta gọi nghĩa vụ phát sinh từ các biện pháp bảo đảm là nghĩa vụ phụ.
– Thứ hai, các biện pháp bảo đảm đều có mục đích nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Thông thường, khi đặt ra biện pháp bảo đảm, các bên hướng tới mục đích nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ. Ngoài ra, trong nhiều trường hợp, các bên còn hướng tới mục đích nâng cao trách nhiệm trong giao kết hợp đồng của cả hai bên. Ví dụ: biện pháp đặt cọc buộc các bên phải giao kết hợp đồng. Mục đích của các biện pháp bảo đảm được thể hiện thông qua các chức năng của từng biện pháp cụ thể. Mỗi một biện pháp bảo đảm có đặc điểm và tính chất riêng biệt, nên chức năng của chúng không thể giống nhau hoàn toàn. Một chức năng riêng biệt có ở biện pháp này nhưng không có ở biện pháp khác. Nhưng nếu nhìn một cách tổng thể thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đều có ba chức năng nói chung: Chức năng tác động, chức năng dự phòng và chức năng dự phạt…
– Thứ ba, đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất. Lợi ích của các hội Lợi ích của các bên trong nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất. Quy luật ngang giá trong các quan hệ tài sản cho chúng ta thấy rằng chỉ có lợi ích vật chất mới bù đắp được các lợi ích vật chất. Vì vậy, các bên trong quan hệ nghĩa vụ không thể dùng quyền nhân thân làm đối tượng của biện pháp bảo đảm. Lợi ích vật chất là đối tượng của các biện pháp bảo đảm thường là một tài sản (vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản hoặc là một công việc phải làm). Các đối tượng này phải có đủ các yếu tố mà pháp luật đã yêu cầu đối với một đối tượng của nghĩa vụ nói chung.
– Thứ tư, phạm vi bảo đảm của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã được xác định trong nội dung của quan hệ nghĩa vụ chính. Khoản 1 Điều 293 BLDS năm 2015 quy định: “Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại”.
Như vậy, về nguyên tắc, phạm vi bảo đảm là toàn bộ nghĩa vụ khi các bên không thoả thuận và pháp luật không quy định khác nhưng cũng có thể chỉ là một phần nghĩa vụ. Ví dụ: “Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh”. Uy align nông ngồi b
– Phạm vi của bảo lãnh không lớn hơn phạm vi của nghĩa vụ dù trong thực tế người có nghĩa vụ đưa một tài sản có giá trị lớn hơn nhiều lần giá trị của nghĩa vụ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ. Vì rằng, dù giá trị của đối tượng bảo đảm có lớn hơn giá trị nghĩa vụ nhưng mục đích của việc bảo đảm đó cũng chỉ là để người mang nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi đã xác định.
– Thứ năm, các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ. Cho dù các bên đã đặt ra một biện pháp bảo đảm bên cạnh một nghĩa vụ chính nhưng vẫn không cần phải áp dụng biện pháp bảo đảm đó nếu nghĩa vụ chính đã được thực hiện một cách đầy đủ. Thông thường, trong một quan hệ nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ tự giác thực hiện nghĩa vụ của họ đối với người có quyền và nếu đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ đã thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ của mình thì biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đó cũng được coi là chấm dứt. Chức năng dự phòng của các biện pháp bảo đảm cho thấy rằng các biện pháp bảo đảm chỉ được áp dụng khi nghĩa vụ chính không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhằm qua đó bảo đảm quyền lợi cho bên có quyền.
-Thứ sáu, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận giữa các bên. Nếu các nghĩa vụ phát sinh từ những căn cứ khác nhau (các căn cứ này có thể là sự thỏa thuận, có thể là do quy định của pháp luật) thì biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh thông qua sự thỏa thuận của các bên trong một giao dịch dân sự. Vì vậy, có quan điểm cho rằng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là những hợp đồng phụ được đặt ra bên cạnh một hợp đồng chính để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng chính. Quan điểm trên còn nhiều vấn đề cần tranh luận nhưng dù sao vẫn phải thừa nhận rằng cách thức và toàn bộ nội dung của một biện pháp bảo đảm đều là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên. Có những hợp đồng dân sự mà pháp luật quy định buộc phải có biện pháp bảo đảm (như hợp đồng vay mà bên cho vay là Ngân hàng nhà nước) nhưng không n cho vì thế mà mất đi sự thỏa thuận giữa các bên. Dù pháp luật đã quy định phải có thế chấp của người vay nhưng người vay vẫn có quyền lựa chọn thoả thuận để cùng với bên cho vay xác cù định về nội dung của thế chấp (đối tượng của thế chấp là bất động sản nào, phương thức xử lí tài sản ra sao v.v.).
2. Định giá tài sản bảo đảm theo quy định của Bộ Luật Dân sự.
Việc định giá tài sản bảo đảm được quy định tại Điều 306 Bộ luật dân sự 2015, theo đó: việc định giá tài sản phải được bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm thoả thuận về giá tài sản bảo đảm hoặc tài sản bảo đảm đó phải được định giá thông qua tổ chức định giá tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm. Theo đó, bên bảo đảm trong quan hệ bảo đảm là bên cam kết trước, bên có quyền trong quan hệ nghĩa vị được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì bên bảo đảm bao gồm: bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên kí cược, bên kí quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị- xã hội tại cơ sở trong trường hợp tín chấp.
Bên nhận bảo đảm trong quan hệ bảo đảm là bên chấp nhận sự cam kết của bên kia về việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng tài sản hoặc bằng việc thực hiện công việc nhất định. Bên nhận bảo đảm luôn luôn là bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ được bảo đảm. Nếu trong trường bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm không có bất cứ thỏa thuận nào khác về định giá tài sản thì việc định giá tài sản bảo đảm sẽ được định giá thông qua tổ chức định giá tài sản. Việc định giá tài sản phải được tiến hành một cách công khai, minh bạch, khách quan, và phải phù hợp với giá cả của thị trường, tránh trường hợp định giá cao hơn hoặc thấp hơn giá thị trường – điều này ảnh hưởng rất nhiều đến quyền và nghĩa vụ của các bên trong định giá tài sản. Nếu trong trường hợp, tổ chức định giá tài sản có những hành vi sai lệch, gian lận, những hành vi trái pháp luật trong quá trình định giá tài sản mà điều này lại gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm thì tổ chức định giá đó sẽ phải bồi thường thiệt hại đối với bên nhận bảo đảm và bên bảo đảm theo quy định của pháp luật và theo thiệt hại trên thực tế.