Khái niệm Triết học cổ điển Đức là dùng để chỉ sự phát triển triết học của nước Đức cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, có ảnh hưởng lớn đối với Triết học hiện đại. Dưới đây là sự hình thành ra đời, phát triển và nội dung cơ bản của Triết học cổ điển Đức.
Mục lục bài viết
1. Điều kiện ra đời, phát triển và nét đặc thù của triết học cổ điển Đức:
Nước Đức từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một quốc gia phong kiến cát cứ điển hình, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Tình trạng cát cứ ấy đã gây trở ngại lớn đối với sự phát triển kinh tế. Về xã hội, giai cấp tư sản mới ra đời còn non yếu mọi mặt; quần chúng lao động bất bình với chế độ đương thời. Trong khi đó, ở Tây Âu, chủ nghĩa tư bản đã hình thành ở nhiều nước, đã đem lại một nền sản xuất phát triển mở đầu cho nền văn minh công nghiệp, khẳng định tính chất ưu việt của chủ nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến. Khác với tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa, khoa học nước Đức thời kỳ này khá phát triển. Đó là kết quả của sự kế thừa tinh hoa văn hóa phương Tây trước đó, di sản văn hóa Đức, văn hóa Pháp và các thành tựu khoa học tự nhiên đương thời,
Sự lạc hậu của nước Đức, sự phát triển của các nước Tây Âu về kinh tế – xã hội, sự phát triển của khoa học đã thức tỉnh tính phản kháng của giai cấp tư sản Đức và đòi hỏi giai cấp tư sản Đức phải có cách nhìn mới về tự nhiên, xã hội, con người. Giai cấp tư sản Đức muốn làm cách mạng tư sản như các nước Tây Âu, muốn xây dựng nền triết học theo yêu cầu mới, song do mới ra đời còn yếu kém về số lượng, kinh tế và chính trị nên họ giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước. Chính điều đó quy định nét đặc thù của triết học cổ điển Đức: Nội dung cách mạng dưới một hình thức duy tâm bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là nền tảng, là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
2. Một số nội dung triết học cổ điển Đức:
2.1. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới của triết học cổ điển Đức:
Lý luận về bản thể trong triết học cổ điển Đức đầy mâu thuẫn. Có duy vật, duy tâm và nhị nguyên luận. Cantơ (1724 – 1804) người sáng lập tết học cổ điển Đức, trong thời kỳ hoạt động khoa học tự nhiên đã xây dựng giả thiết về nguồn gốc vũ trụ, theo đó thì sự xuất hiện và tiến hóa của hệ thống hành tinh là bắt nguồn từ “đám mây mù” đầu tiên. Về sau Cantơ chuyển sang hoạt động triết học và triết học của ông là triết học nhị nguyên. Một mặt, ông thừa nhận thế giới các vật tự nó ” tồn tại khách quan có thể tác động lên các giác quan của con người.
Ở điểm này Canto là nhà duy vật. Mặt khác, ông cho rằng các vật thể mà ta nhận thấy được lại không liên quan gì đến thế giới các “vật tự nó “, chúng chỉ là các hiện tượng phù hợp với các cảm giác và trị giác do lý tính con người tạo ra • nghĩa là con người chỉ biết hiện tượng bề ngoài mà không hiểu được bản chất đích thực của sự vật. Hêghen (1770 – 1831) nhà biện chứng lỗi lạc của triết học cổ điển Đức cho rằng nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội là ý niệm tuyệt đối.
Từ điểm xuất phát này, ông đã xây dựng một hệ thống triết học duy tâm khách quan. Phoiơbắc (1804 – 1872) là một trong những nhà duy vật, vô thần lớn nhất trong lịch sử triết học cận đại. Ông chứng minh rằng, thế giới là thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại độc lập với ý thức và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học nào. Do đó, cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong lòng giới tự nhiên.
2.2. Tư tưởng biện chứng của triết học cổ điển Đức:
Thành tựu lớn nhất của nền triết học cổ điển Đức là phép biện chứng. Phép biện chứng duy tâm khách quan của triết học cổ điển Đức bắt đầu từ Cantz qua Phíchtơ, Selinh đến đỉnh cao là Hêghen,
– Biện chứng của Canto
Công lao của Cantơ ở chỗ ông là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức:
Ngay từ thời kỳ tiền phê phán, trong tác phẩm Đại cương lịch sử tự nhiên và lý thuyết bầu trời (1755), Canto đã nghiên cứu giả thuyết vũ trụ luận “bầu trời” và sự hình thành hệ hành tinh từ “đám mây mù đầu tiên”. Ở giả thuyết này, sau khi phê phán sự vô lý của quan điểm siêu hình về tự nhiên tĩnh, không phát triển, ông đã nêu lên quan điểm về sự phát triển với tính cách là nguyên lý lý luận nhận thức của tự nhiên. Sự phát triển, theo Canto không chỉ là “trạng thái của tự nhiên”, mà còn là nguyên lý quan trọng nhận thức về tự nhiên, nguyên lý này theo ông phải được vận dụng trong mọi khoa học cụ thể.
Thời kỳ “phê phán”, trong công trình Phê phán lý tính thuần tuý (1781), ông đã trình bày việc phân tích hình thức và nội dung của nhận thức, đồng thời nêu lên cách vận dụng khác nhau về khái niệm, phạm trù trong nhận thức, trong thực tiễn đạo đức. Các hình thức tư duy ấy đóng vai trò tích cực trong nhận thức với tính cách là những nguyên tắc điều chỉnh quá trình nhận thức. Ở đây, mặc dù ông nêu lên giả định thuyết tiên nghiệm nhưng ông vẫn cho rằng tự nhiên khách quan và thực tế của tư duy là phép biện chứng. Cantơ cho rằng lôgíc đang áp dụng lúc ấy không thể đáp ứng được những đòi hỏi bức xúc khi giải quyết các vấn đề tự nhiên và xã hội.
Vì vậy, ông không sử dụng lôgíc thông thường mà thay vào đó, ông sử dụng lôgíc tiện nghiệm là hình thức cao của lôgíc, có tính chất phổ biến và tất yếu của những hình thức tiên thiên, của giác tính và lý tính, Lôgíc tiện nghiệm ông chia làm hai phần: phân tích tiện nghiệm là học thuyết về giác tỉnh và biện chứng tiện nghiệm là học thuyết về lý tính. Nếu ở lôgíc đại cương thao tác cơ bản là phân tích thì trong lôgíc tiên nghiệm là sự tổng hợp có vai trò hình thành các khái niệm mới về đối tượng.
Canta là nhà triết học đầu tiên bắt đầu nhận thấy các hình thức lôgíc của tự duy dưới dạng của phạm trù mà những phạm trù này tạo thành hệ thống xác định (bảng phạm trù) trong học thuyết của ông, ở đó có nhiều tư tưởng biện chứng. Tuy nhiên, các phạm trù của Cantơ là những hình thức tiên nghiệm của năng lực phán đoán, đó là hình thức lược đồ khái quát về hoạt động của chủ thể, làm chức năng điều chỉnh nhận thức.
Học thuyết của Cantơ về mâu thuẫn (Antinomi) đã góp phần quan trọng trong sự phát triển phép biện chứng với tư cách là lôgíc và phương pháp luận. Ông cho rằng lý tính của con người có khát vọng xâm nhập vào lĩnh vực “vật tự nó” để đạt tới tri thức tuyệt đối vượt ra ngoài giới hạn của kinh nghiệm cảm tính. Điều đó dẫn tới nảy sinh những mâu thuẫn (antinomia). Cantơ đã nêu lên bốn mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn được cấu tạo từ hai luận đề đối lập nhau.
Nhận xét vấn đề này, Hêghen cho rằng không phải chỉ có bốn mâu thuẫn mà trên thực tế, mỗi khái niệm, mỗi phạm trù đều mang tính chất mâu thuẫn. Hêghen chỉ rõ đóng góp lý luận của Cantơ cho phép biện chứng là mẫu thuẫn thuộc về bản chất các tính quy định của tư duy. Tuy nhiên, khi tiếp cận nguyên tắc này của phép biện chứng, Cantơ chỉ rút ra từ đó kết luận rằng mâu thuẫn tất yếu do hoạt động của lý tính sinh ra, nên lý tính không thể đạt tới “vật tự nó mà buộc phải thoả mãn với các “hiện tượng”, “vẻ bề ngoài”. Còn bản thân phép biện chứng không phải là cái gì khác ngoài “lôgic của vẻ bề ngoài”.
Triết học, theo Hêghen là sự xem xét đối tượng một cách có suy nghĩ. Đối tượng của triết học, theo ông là trùng với đối tượng của tôn giáo đó là khách thể tuyệt đối vô hạn Thượng đế. Còn tư duy nói chung là cái làm cho con người khác với động vật, Thành tựu quan trọng của triết học Hêghen là phương pháp biện chứng mà hạt nhân hợp lý của nó là tư tưởng về sự phát triển.
Phương pháp biện chứng của Hêghen là phương pháp suy ngẫm triết học về thế giới. Kết quả của phương pháp này là hình ảnh suy tư chỉnh thể về thế giới chứ không phải là bức tranh thế giới thu được nhờ kết quả của khoa học cụ thể. Để suy ngẫm về thế giới, Hêghen đã bao trùm lên nó một hệ thống phạm trù hay đúng hơn là quan niệm lý trí về thế giới. Phương pháp biện chứng được thể hiện xuyên qua toàn bộ hệ thống triết học của ông từ lôgic học, triết học tự nhiên đến triết học tinh thần.
– Trong Lôgíc học, Khi trình bày ý niệm tuyệt đối” vận động và phát triển, Hêghen cho rằng đó là sự tự vận động nội tại của “ý niệm tuyệt đối”, Tự vận động tức là sự thay đổi hình thức khác nhau của “ý niệm tuyệt đối”: Lênin tìm thấy hạt nhân hợp lý trong phương pháp biện chứng của Hêghen là sự tự vận động. Nội dung hợp lý sâu sắc trong quan điểm trên của Hêghen theo Lênin là mối liên hệ tất yếu, là nguồn gốc nội tại của những sự khác nhau’. Khi trình bày “ý niệm tuyệt đối” phát triển, Hêghen thừa nhận tồn tại, bản chất, khái niệm là ba sự quy định, ba hình thức thể hiện chủ yếu trong quá trình phát triển ở lĩnh vực lôgíc, Hạt nhân hợp lý trong lôgic học của Hêghen. là phù hợp với quá trình suy nghĩ của con người: mới nhìn vào sự vật thấy tồn tại, đi sâu vào sự vật tìm ra bản chất, khi nắm bản chất ta rút ra khái niệm”.
Trong lôgíc học ở phần tồn tại, Hêghen đã diễn đạt các phạm trù chất, lượng, độ và tư tưởng biện chứng về sự chuyển hóa từ lượng đến chất và ngược lại. Ở phần bản chất, Hêghen đã diễn đạt các phạm trù bản chất, hiện tượng, quy luật, khả năng và hiện thực, nguyên nhân và kết quả, và trình bày học thuyết mâu thuẫn nguồn gốc của sự phát triển. Ở phân khái niệm Hêghen đã diễn đạt các phạm trù cái chung và cái riêng, quy nạp và diễn dịch, phân tích và tổng hợp, đã diễn đạt các nguyên lý sự hoạt động có mục đích của con người, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tổng hợp lại quan niệm phát triển với tư cách là phủ định của phủ định.
Đồng thời trong khoa học lôgíc phương pháp biện chứng của Hêghen còn được thể hiện ở chỗ ông đã đặt ra vấn đề sự thống nhất của quá trình lôgíc với quá trình lịch sử; lôgíc học, nhận thức luận đều là sự tổng hợp của quá trình lịch sử; ông nêu lên tính hạn chế của lôgíc hình thức và đòi hình thành một lôgíc có nội dung thực tế, sinh động, ông nêu lên tư tưởng thống nhất giữa phép biện chứng, lôgic học và lý luận nhận thức.
Nhận xét về những vấn đề trên, Lênin coi Hêghen là người phác thảo về phép biện chứng • rất hay, rõ ràng, quan trọng. Dựa trên những quan điểm ấy và thực tiễn, Lênin cho rằng: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”.
Trong triết học tự nhiên, hạt nhân hợp lý của phép biện chứng là tư tưởng về sự thống nhất giữa vật chất với vận động, dự đoán không gian, thời gian và vận động có mâu thuẫn bên trong, ở đó được thể hiện tính thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục; là tư tưởng cho rằng sự khác biệt hóa học về chất bị phụ thuộc vào những thay đổi về lượng, về tính biện chứng của quá trình hóa học; về mối liên hệ hữu cơ giữa hóa học và vật lý, quá trình hóa học là khâu cuối cùng chuẩn bị cho đời sống hữu cơ.
Trong triết học tinh thần, hạt nhân hợp lý của Hêghen ở chỗ coi sự phát triển của lịch sử là hợp quy luật; sự phát triển của lịch sử không tuần hoàn mà đi lên, mỗi thời đại lịch sử đều có đặc điểm riêng, quá trình phát triển của lịch sử là có kế thừa.
Như vậy, Hêghen đã có công nêu ra các phạm trù và quy luật cơ bản của phép biện chứng, nhưng là phép biện chứng duy tâm. Mặc dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ thế giới tự nhiên, lịch sử và tinh thần dưới dạng một quá trình vận động, biến đổi, phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy. C.Mác và Ph.Ăngghen đã phê phán một cách triệt để các hạn chế trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đã đánh giá cao và tiếp thu hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.
2.3. Tư tưởng về con người của triết học cổ điển Đức:
Vấn đề muôn thuở, luôn được triết học bàn đến qua các thời đại là con người từ đầu đến? Vai trò, vị trí của con người trong thế giới và tương lai của con người như thế nào? Kế thừa sự lý giải về những vấn đề muôn thuở trên trong lịch sử triết học từ cổ đại tới cận đại XVII – XVIII, triết học cổ điển Đức thừa nhận con người là một chủ thể, đồng thời lại là kết quả của quá trình hoạt động của mình, khẳng định thực tiễn cao hơn lý luận… Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người, vì vậy con người mang bản chất xã hội. Nghiên cứu bản chất xã hội của con người Cantơ và sau này Hêghen phát triển, khẳng định mỗi con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định.
Cantơ trong tác phẩm về các chủng tộc người khác nhau (1775) đã đề xuất tư tưởng về sự thống nhất của loài người: “tất cả mọi người trên trái đất về bản chất, đều thuộc một loài”, nhưng có sự khác nhau về chủng tộc và nguyên nhân của sự khác nhau ấy là do sự tác động đa dạng của các điều kiện sống tự nhiên – vật chất khác nhau. Theo đó, Cantờ chứng minh tính xã hội của loài người được hình thành do sự vận động của các trạng thái tự nhiên – sinh học của các cá thể ở mỗi thể hê, dần dần qua phát triển ý thức của các thế hệ mà các trạng thái đạo đức và cuối cùng là tư tưởng xã hội được phát triển.
Nghiên cứu xã hội loài người Cantz phân ra bốn bước phát triển. Bước một là bước chuyển từ trạng thái động vật sang trạng thái có tính người, từ lệ thuộc vào bản năng động vật sang có sự chỉ đạo của lý trí. Bước hai là chuyển từ khi lý trí trở thành vai trò trọng yếu trong đời sống. Sự tác động qua lại giữa cá nhân và xã hội được xác định bằng nguyên tắc lý trí. Thời kỳ này con người xuất hiện nhu cầu mới là giáo dục. Bước ba, là sự phát triển hướng về tương lai, “hãy sống cho thế hệ mai sau”. Bước bốn, là được thực hiện bằng lý trí và từ bước này, con người vượt lên trên thế giới động vật.
Cantơ rất quan tâm tới vai trò hoạt động cải tạo của con người với tư cách là chủ thể của thế giới, bởi con người về bản chất là một thực thể hoạt động tích cực. Bản chất hoạt động của con người được thể hiện trong phân triết học thực tiễn. Con người trong triết học thực tiễn chính là con người được bàn đến trong triết học lý luận, nhưng giờ đây được xem xét trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn được Cantz hiểu nghĩa hẹp là hoạt động đạo đức, nghĩa rộng là hoạt động chính trị, lịch sử, pháp quyền, văn hóa…
Trong Hiện tượng học tinh thần, nguyên lý xuất phát triết học Hêghen là sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và thế giới được hiểu như là hiện thân của tinh thần đó, Tư duy, tinh thần, theo Hêghen là nguồn gốc duy nhất của mọi cái trong tồn tại. Thế giới tự nhiên là tư duy đã tha hóa, là tư duy tồn tại dưới dạng vật chất. Tư duy khi suy tư về bản thân mình thì nó đã lấy chính bản thân mình làm đối tượng để tư duy. Tư duy là quá trình nhận thức phát triển từ thấp đến cao, giai đoạn phát triển cao nhất của tư duy là lịch sử nhân loại, là ý niệm tuyệt đối.
Nói cách khác, Hêghen coi thế giới vật chất chính là con người vô cơ, con người ở giai đoạn chưa hình thành. Còn con người bằng xương, bằng thịt theo Hêghen là con người đã phát triển đầy đủ, là con người trở về chính bản thân nó với tất cả những đặc tính vốn có của mình. Như vậy, từ điểm xuất phát của triết học đã xác định, Hêghen đã quy mọi quá trình của hiện thực về quá trình tư duy, quy lịch sử hiện thực về lịch sử tư duy, quy hoạt động thực tiễn của con người về quá trình tự ý thức, tự nhận thức.
Phương pháp biện chứng của Hêghen trong Hiện tượng học tinh thần coi con người vừa là chủ thể, đồng thời lại là kết quả của chính quá trình hoạt động của mình; tư duy và trí tuệ của con người hình thành và phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải biến thế giới đối lập với bản thân mình thành cái của mình, ý thức con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, hoạt động của con người càng phát triển thì ý thức của nó càng mang bản chất xã hội.
Đối lập với Hêghen, chủ nghĩa nhân bản của Phoiơbắc coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên. Ông đã giải thích tất cả đặc điểm và tính chất của con người bằng nguồn gốc tự nhiên của chúng. Việc nhấn mạnh sự thống nhất giữa con người với tự nhiên nhằm chống lại quan điểm duy tâm về con người và chống sự tách rời có tính chất nhị nguyên luận về linh hồn và thể xác.
Trước những thành tựu mới của phương thức sản xuất tư bản, các nhà triết học cổ điển Đức đã đề cao sức mạnh trí tuệ của con người, song do ảnh hưởng của phương pháp siêu hình, sự đề cao ấy tới mức cực đoan, Canto, Hêghen đã thần thánh hoá năng lực của con người dẫn đến quan niệm duy tâm, khẳng định mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội là kết quả hoạt động của con người. Phoiơbắc tuy không đề cao như vậy, quy triết học về nhân bản học nhưng hiểu con người chỉ theo nghĩa trần tục bằng xương bằng thịt nên gặp hạn chế trong triết học của mình là duy vật máy móc.
Tuy nhiên, thành tựu Cơ bản của triết học cổ điển Đức về con người là nó khẳng định tư duy, ý thức chỉ phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới, con người là chủ thể, đồng thời là kết quả hoạt động của một thời đại lịch sử nhất định của nền văn minh do chính mình tạo ra triết học cổ đại cổ điển Đức; nghiên cứu lịch sử nhân loại, nghiên cứu quan hệ giữa con người với tự nhiên theo quan niệm biện chứng.
2.4. Tư tưởng về đạo đức của triết học cổ điển Đức:
Bước phát triển mới trong đạo đức học được ghi nhận bằng học thuyết đạo đức của Cantơ, Hêghen và Phoiơbắc.
Đạo đức của Cantơ theo lập trường duy lý. Ông coi lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức. Ông cho rằng các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới chỗ hưởng thụ cá nhân, ích kỷ, phi đạo đức. Đối với nhân cách nói chung, đạo đức nói riêng thì chỉ cân lý tính thuần tuý kiềm chế tính tự ái, hạn chế nó là đủ”, Từ đó, ông nêu lên nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối và chỉ có khi con người hành động phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được coi là có đạo đức.
Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi mọi người trong hoạt động cộng đồng phải sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn trọng mọi người, sống theo lẽ phải, tôn trọng sự thật. Tiêu chuẩn đánh giá các giá trị đạo đức là có lợi cho xã hội và công dân. Mệnh lệnh tuyệt đối là quy luật đạo đức chung đòi hỏi mọi người, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội phải thực hiện. Tất cả mọi công dân đều bình đẳng trước quy luật và chuẩn mực đạo đức. Phạm trù trung tâm của đạo đức học là tự do, “ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật đạo đức là như nhau”.
Mặt tích cực của đạo đức học Canto là đã thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa chuẩn mực đạo đức với hệ thống luật pháp, khẳng định được tính tất yếu của cơ sở pháp lý đối với chuẩn mực đạo đức, đặt tiêu chí đạo đức trong mối liên hệ hữu cơ với pháp quyền. Đồng thời tư tưởng đạo đức của Cantờ chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo Mệnh lệnh tuyệt đối đã khuyến mỗi con người hãy “hành động tới mức tối đa sao cho điều đó được đưa vào cơ sở, lập pháp phổ biến”?
Thước đo “lập pháp phổ biến” là có lợi cho xã hội, cho công dân. Khía cạnh hạn chế của đạo đức học Cantơ là còn mang tính chất duy tâm, duy lý, chưa đánh giá đúng mức sự tác động và hạn chế của kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa đối với hoạt động đạo đức. Đồng thời, còn thể hiện tính không tưởng, phi lịch sử, phi giai cấp khi ông khuyên mọi người không kể giai cấp, quốc gia, dân tộc… hãy làm theo mệnh lệnh tuyệt đối.
Đạo đức học của Hêghen liên hệ mật thiết với pháp quyền. Mục đích chủ yếu của đạo đức học Hêghen là phân tích hiện thực xã hội đang tồn tại chứ không phải cái hiện thực cần phải có. Phù hợp với nhiệm vụ ấy, Hêghen nghiên cứu pháp quyền, đạo đức, gia đình, xã hội công dân và nhà nước như là sự tha hóa của “tinh thần đạo đức khách quan.
Ưu điểm đạo đức học của Hêghen là ở chỗ ông đã trình bày các phạm trù đạo đức, đặc biệt là phạm trù cái thiện và cái ác trong những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hóa giữa chúng với nhau. Ông đã nhìn thấy trong quá trình phát triển của lịch sử, trong những điều kiện cụ thể, cái ác có thể trở thành cái thiện và cái thiện cũng có thể trở thành cái ác. Hai phạm trù ấy, theo Hêghen là sự thể hiện trọn vẹn ý chí của con người đối với cái toàn năng, biểu hiện sự thống nhất giữa đạo đức cá nhân và các quyền lợi chung. Thông qua tìm thấy nội dung đạo đức hiện thực được ông trình bày một cách biện chứng. Trong Triết học pháp quyền Hêghen đã trình bày quan điểm đạo đức của mình qua sự phân tích khái niệm tự do và ý chí. Học thuyết đạo đức của Hêghen kết thúc bằng lý luận về nhà nước. Nghĩa vụ đạo đức cao cả là yêu nước, phục tùng nhà nước.
Hạn chế đạo đức học của Cantơ ở chỗ ông coi nhà nước lý tưởng là nhà nước quân chủ Phổ. Đạo đức của Hêghen nhằm bảo vệ nhà nước quân chủ Phổ. Ông coi Nhà nước Phổ là sự thể hiện hoàn thiện nhất của “ý niệm đạo đức”; “ý niệm đạo đức” ở đây là sự thần bí hoá các quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội thực tế như quá trình xã hội, công dân, nhà nước chỉ được coi là sự thể hiện của ý niệm đạo đức,
Phoiơbắc đã phê phán tư tưởng đạo đức học của Canto, Hêghen và khôi phục lại tư tưởng nhất nguyên duy vật thế giới và con người. Ông gọi triết học của mình là triết học nhân bản, là học thuyết về con người. Đạo đức học của ông trở về với luận đề cho rằng phải tìm thấy đạo đức từ bản chất con người. Ông nhấn mạnh đạo đức chỉ tồn tại ở đâu có quan hệ người với người, đâu có mối quan hệ giữa tôi và anh. Nhiệm vụ của đạo đức học là phải khám phá ra con đường đi tới xác định được sự hài hòa giữa nghĩa vụ và hạnh phúc, hài hòa các lợi ích con người. Hạn chế trong đạo đức của Phoiơbắc ở chỗ ông quy mọi quan hệ của con người vào quan hệ đạo đức. Ông lấy sự yêu thương lẫn nhau giữa mọi người và nguyện vọng tự nhiên của con người muốn có hạnh phúc làm nguyên tắc cơ bản. Ông tuyên truyền cho một tình yêu phổ biến, vì tình yêu ấy có thể khắc phục được mọi bất công xã hội, mọi đau khổ của con người.