Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Mâu thuẫn có từ khi sự vật, hiện tượng xuất hiện và chính nó là động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc của sự vận động bên trong sự vật, hiện tượng. Dưới đây là nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập với việc phân tích các mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

1. Khái quát về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, V.I Lênin đã coi quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là “hạt nhân của phép biện chứng” bởi vì quy luật này đã chỉ rõ nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật, và là “chìa khóa” giúp chóng ta nắm vững thực chất của các quy luật cơ bản và các cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nghiên cứu vấn đề này, có những nội dung đáng chú ý như sau:

1.1. Các mặt đối lập, sự thống và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Theo phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính có xu hướng vận động trái ngược nhau, loại trừ, bài xích, chống đối lẫn nhau. Chúng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhưng lại song song tồn tại trong cùng một sự vật, hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó.

Giữa các mặt đối lập trên luôn luôn có sự liên hệ, quy định, ràng buộc lẫn nhau gọi là sự thống nhất của các mặt đối lập. Thống nhất ở đây không phải là chúng đứng bên cạnh nhau mà chúng có sự liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Một sự vật không thể tồn tại nếu thiếu đi một trong hai mặt đối lập chính tạo nên sự vật đó. Điều đó có nghĩa là sự tồn tại của bất cứ sự vật, hiện tượng nào cũng không thể thiếu được sự thống nhất của các mặt đối lập tồn tại trong bản thân sự vật, hiện tượng ấy.

Như vậy, trong sự thống nhất đã ẩn chứa sự đối lập. Trong mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời với sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì trong quy định ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau, đấu tranh lẫn nhau. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập thường được chia làm nhiều giai đoạn. Thông thường, khi mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ nhưng xung khắc, đối chọi lẫn nhau. Nhưng khi các mặt đối lập này phát triển theo hướng ngược chiều nhau đến một mức độ nào đó sẽ hình thành mâu thuẫn. Khi đó, các mặt đối lập có xu hướng xung đột, bài trừ, phủ định lẫn nhau.

1.2. Tính khách quan và phổ biến của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:

Một điều dễ nhận thấy là: tất cả các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều luôn luôn khác biệt nhau, nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng đó là tồn tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau (một cách trực tiếp hay gián tiếp…). Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập có tính khách quan vì là cái vôn có trong các sự vật, hiện tượng và tính phổ biến do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập tồn tại trong tất cả các lĩnh vực (như tự nhiên, xã hội và tư duy) … Do sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có tính khách quan và phổ biến nên nó có tính đa dạng và phức tạp. Mầu thuẫn trong mỗi sự vật và trong mỗi lĩnh vực khác nhau. Hay trong mỗi một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mâu thuẫn mà có nhiều mâu thuẫn … sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đặt đến một mức độ nào đó thì mâu thuẫn sẽ được giải quyết, sự vật mới ra đời. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời và hình thành một quá trình mới, làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.

1.3. Vai trò của mâu thuẫn với sự vận động và phát triển:

Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt: thống nhất của các mặt đối lập và đâu tranh của hai mặt đối lập. Trong đó: thống nhất của các mặt đối lập là tạm thời, tương đối, còn đấu tranh giữa hai mặt đối lập là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là tự thân và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hóa thành các bộ phận, các sự vật đa dạng phức tạp, giai đoạn … Như vậy, mâu thuẫn là khách quan phổ biến, đa dạng. Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thống nhất của các mặt đối lập. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hóa giữa chúng là nguồn gốc, động lực của sù  phát triển.

Như chóng ta đã biết, từ khi Chủ nghĩa xã hội được xây dựng, các mức xã hội chủ nghĩa đều thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cơ chế vận hành và quản lý kinh tế này được duy trì trong một thời gian khá dài và xem như  đặc trưng riêng biệt của Chủ nghĩa xã hội, là các đối lập với nền kinh tế thị trường. Các nước TBCN cũng đã từng sử dụng cơ chế kinh tế tập trung nhưng nhanh chóng xóa bỏ nó ngay sau chiến tranh và đã đạt được thành tựu to lớn về kinh tế và xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường vẫn gặp phải rất nhiều mâu thuẫn tồn tại.

1.4. Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường nhìn tư góc độ triết học:

Nhìn chung, nền kinh tế trong thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường vận động theo cơ chế của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Nếu để tự phát, nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đi lên Chủ nghĩa tư bản. Nhưng nếu có sù  đấu tranh thì có thể giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một quá trình khó khăn,  phức tạp nhất là đối với Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn chiếm ưu thế. Hiện nay, chóng ta đang chúng ta đang trong thời kỳ chuyển tiếp từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Do vậy, nền  kinh tế cũng mang những đặc điểm của thời kỳ quá độ.

Trước hết, trong nền kinh tế tập  trung, bao cấp, mọi chức năng kinh tế – xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hóa. Tất cả các khâu sản xuất – lưu thông – phân phối đều mang nặng tính bao cấp. Động lực trực tiếp của hoạt động xã hội là lợi ích kinh tế gần như bị bỏ qua. Do đó, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.

Sau năm 1986, nước ta có sự thay đổi lớn, tạo ra bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VII (12.1986) thực sự là đại hội của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình, đánh dấu mốc phát triển mới trong nền kinh tế ở nước ta. Đó là dứt khoát từ bỏ những nhận thức sai lầm, những quan điểm lạc hậu, lỗi thời về chủ nghĩa xã hội mà vấn đề trung tâm là “phải vượt qua mô hình chủ nghĩa xã hội cũ để xác lập mô hình mới về chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Dù nền kinh tế thị trường mới được hình thành ở Việt Nam nhưng cũng đã tác động khá rõ đến mọi mặt của đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hóa…”Sự đan xem chi phối mãnh liệt của các nhân tố khác của đời sống xã hội trong bối cảnh một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị khúc xạ theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì vai trò quản lý của nhà nước là vô cùng quan trọng. Nhà nước trực tiếp quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội.

Hiện nay, cơ chế quản lý trong đang ở trong giai đoạn mới hình thành nên còn đang thiếu hụt, chưa hoàn chỉnh, dẫn đến môi trường sản xuất, kinh doanh thiếu ổn định, an toàn. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương diện kinh tế – xã hội dường như đang rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta. Do vậy quá trình chuyển hóa này vấp phải rất nhiều mâu thuẫn nội tại.

2. Những mâu thuẫn trong quá trình chuyển hóa từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường ở Việt Nam:

2.1. Trước hết, cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết vĩ nền kinh tế do sự tác động của các quy luật vốn có của nó:

Cơ chế thị trường là hệ thống hữu cơ những sù Thích ứng lẫn nhau, điều tiết lẫn nhau của các yếu tố: giá cả, cung, cầu, cạnh tranh…cơ chế thị trường với những quy luật khó nắm bắt, thường biểu hiện như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sù chi phối của con người hơn. Trong các giai đoạn quá độ, chuyển tiếp, yếu tố tự phát thể hiện vai trò của mình mạnh hơn yếu tố tự giác. Bởi vậy, nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự phát, tự giác của nền kinh tế, hiểu được phương thức hoặc tìm ra phương pháp kiểm soát thích hợp là điều rất có ý nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có quá nhiều hiện tượng, quá trình mà ta còn buông lỏng sự kiểm soát hoặc chưa thực sự đủ khả năng kiểm soát. Sản xuất hàng hóa cùng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường được xem là khách quan tất yếu với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Tuy nhiên nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta cũng hiểu rõ thêm bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội: Nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội nhưng tăng trưởng kinh tế chưa hẳn nhất thiết đi liền với sự tiến bộ xã hội. Do vậy, sự chuyển dịch cơ chế tập trung – bao cấp sang cơ chế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước.

2.2. Những mâu thuẫn biện chứng của nền kinh tế thị trường:

Thứ nhất: ta xét đến mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất là vấn đề rất phức tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này là những biểu hiện của nó xét trên phương diện triết học Mác – Lênin thì: lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là ý thức của sự vật. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất là yếu tố vận động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất không còn phù hợp nữa. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành yếu tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Để mở đường cho lực lượng sản xuất cần thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến và quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt và quyết liệt, cần được giải quyết.

Để giải quyết được mâu thuẫn đó cần tiến hành cách mạng xã hội. Ví dụ như công cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Nhiệm vụ quan trọng nhất, thể hiện tính chất cách mạng rõ nhất của công cuộc đổi mới Việt Nam hiện nay là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp hóa – hiện đại hóa,”dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng, vừa mang tính khoa học. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghĩa là từng bước xây dựng nền sản xuất tiên tiến lực lượng sản xuất phát triển phù hợp với sự phát triển của quan hệ sản xuất. Đây là phương thức tốt nhất để đưa nền kinh tế nước ta thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ nghèo nàn, lạc hậu, nhằm tạo điều kiện cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội được xây dựng và phát triển.

Thứ hai: ta xét mâu thuẫn giữa cái hình thái sở hữu trước đây và trong cơ chế thị trường.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể được áp dụng triệt để. Sự tồn tại của hai hình thức sở hữu này là tất yếu khách quan vì nó phù hợp với điều kiện lịch sử khi tiến hành cách mạng CNXH và xây dựng CNXH. Sau khi giành được chính quyền, công nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau. Một là hình thức sở hữu tư nhân TBCN, có thể giải quyết bằng cách tước đoạt hoặc “chuộc lại” để chuyển sang sở hữu toàn dân. Hai là với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hóa nhỏ thì có thể dùng biện pháp giáo dục, vận động, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện chuyển sang sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hóa hai hình thức. Sở hữu đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp công nhân và nông dân tập thể.

Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Thực tiễn cho thấy rằng một nền kinh tế nhiều thành phần sẽ kéo theo sự đa dạng về hình thức sở hữu chứ không phải chỉ hai hình thức sở hữu như trong nền kinh tế cũ.

+ Hình thức thứ nhất: sở hữu toàn dân

Theo quan niệm cũ, sở hữu toàn dân thuộc về công hữu, do nhà nước trực tiếp đứng ra quản lý. Hiện nay, quan niệm đó đã có nhiều thay đổi. Theo hiến pháp và luật đất đai quy định: “đất đai thuộc sở hữu toàn dân”. Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại của cả một cộng đồng. Về mặt xã hội, đất đai là nơi cư trú của cả một cộng đồng việc đất đai là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là đại diện quản lý không hề mâu thuẫn với việc tạo quyền sở hữu.v..v.Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: “Trên cơ sở chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển nhượng, sử dụng đất đai”. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Như vậy, hình thức sở hữu toàn dân ở nước ta đã được xác định theo nội dung mới.

+ Hình thức sở hữu thứ hai: sở hữu nhà nước

Trong cơ chế cũ, sở hữu nhà nước thường không có sự tách biệt với sở hữu toàn dân. Do vậy mà trong một thời gian dài người ta chỉ quan tâm tới sở hữu toàn dân mà bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hóa nền kinh tế với sù  tin chắc chỉ như vậy mới đi đến chủ nghĩa xã hội. Nhưng sự thực, sở hữu toàn dân không thuộc quyền sở hữu của một cá nhân nào. Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu nhà nước ở nước ta là khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh nghiệp nhà nước.v.v…

+ Hình thức thứ ba: sở hữu tập thể

Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp) mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy mà với hình thức sở hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường rất hạn chế, đôi khi còn có tình trạng lạm phát. Sự không xác định, sự “nhập nhằng” với quyền sở hữu nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thoát khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần xác định rõ quyền mua, bán, chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh doanh. Như vậy thì sở hữu tập thể mới trở thành hình thức sở hữu có hiệu quả.

Như chóng ta biết,hợp tác xã không phải là hình thức đặc trưng cho nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà là hình thức sở hữu tiến bọ trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, như V.I.Lênin đã khẳng định: “chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa”.

Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hóa, các nhu cầu kinh tế về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình thức hợp tác xã kiểu mới ra đời cho nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường. Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.

Thứ ba: xét mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN, yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của XHCN, chóng ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát.

Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị trường. Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển con người xã hội chủ nghĩa.

Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống nhanh chóng, góp phần khơi dậy nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường được thay đổi và sôi động hơn. Đây là kết quả đáng mừng, đáng được phát huy, nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mô toàn xã hội.

Những phân tích trên cho thấy, kinh tế thị trường là mục tiêu xây dựng con người XHCN là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội, giữa quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố hủy hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn trên đây là việc làm không đơn giản. Ở nước ta, mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người CNXH được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hộ mà là thành tựu nền phát triển văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Như vậy Đảng ta đã vạch rõ sự thống nhất giữa nền kinh tế thị trường với mục tiêu xây dựng con người XHCN. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ góp phần phát huy tác động tích cực to lớn cũng như ngăn ngõa, hạn chế, khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Các hoạt động kinh doanh phải hướng vào phục vụ xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hóa, giáo dục nhằm xóa bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bấp chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn. Phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mĩ, các di sản văn hóa, nghệ thuật của dân téc như nội dung của nghị quyết T.W V đã nêu. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động, góp phần giải quyết mâu thuẫn này.

2.3. Những giải pháp:

Qua những phân tích trên, ta thấy cơ chế thị trường cùng với những mâu thuẫn nội tại của nó có rất nhiều những ưu thế như: Nó kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường còn điều tiết khối lượng hàng hóa,…phù hợp với nhu cầu của thị trường,thực hiện một cách tối ưu các nguồn lực kinh tế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước, có khả năng thích nghi cao hơn trước những điềukiện kinh tế – chính trị biến đổi. Tuy vậy, cơ chế của nền kinh tế thị trường cũng gây không Ýt tá động xấu như: phân hóa giàu nghèo ngày một rõ rệt, khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa. Ngoài ra, mục đích của các chủ thể kinh tế là tối đa hóa lợi nhuận nên có thể lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường.v.v..Bởi vậy tất yếu nảy sinh yêu cầu có sự điều tiết của nhà nước. Để thực hiện các chức năng kinh tế của mình, nhà nước cần thực hiện tốt các nội dung và các công cụ để quản lý như: áp dụng hệ thống luật pháp, các chính sách, các kế hoạch, các công cụ kinh tế đối ngoại…để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, nhằm xây dựng nền kinh tế mới hoạt động theo cơ chế của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển nên nắm được bản chất của sự vật cần phải phân đôi các thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của chúng.

Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, trong đó khi nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có phương pháp luận phân tích mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn một cách cụ thể. Việc giải quyết mẫu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh các mặt đối lập và với những điều kiện đã chín muồi.

Quy luật vận động của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cũng không nằm ngoài quy luật đã nêu trên. Thực tiễn kinh tế đát nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế mới đã và đang chứng minh tính khách quan khoa học, tính hiệu quả cao của cơ chế kinh tế mới đó. Nhưng chúng ta chưa thể xem đó là mô hình thiết kế hoàn chỉnh mà cần có thời gian và kinh nghiệm thực tiễn để bổ sung, phát triển và hoàn thiện mô hình đó.

    5 / 5 ( 1 bình chọn )