Người dưới 18 tuổi có được hưởng thừa kế không? Chia di sản thừa kế trong trường hợp người hưởng di sản thừa kế chưa thành niên như thế nào?
Mục lục bài viết
1. Chia di sản thừa kế khi người thừa kế chưa đủ 18 tuổi:
Theo quy định của pháp luật dân sự thì những người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.
Thông thường thì khi thực hiện các giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo pháp luật của người đó xác lập, thực hiện như là cha mẹ hoặc những giám hộ. Những người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
Khi những người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản như đất đai, nhà cửa, động sản là xe môtô và xe ôtô phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý theo quy định pháp luật.
+ Trường hợp người chết có để lại di chúc cho người chưa thành niên thì người chưa thành niên sẽ được hưởng di sản theo ý chí của người để lại di chúc.
Tuy nhiên theo quy định của pháp luật khi người có tài sản chết có để lại di chúc thì những người con chưa thành niên của người chết vẫn được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dụng của di chúc bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp người có di sản mất không để lại di chúc thì sẽ chia thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
+ Khi người có tài sản chết mà không để lại di chúc thì sẽ chia theo pháp luật theo hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng của người chết, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết sẽ được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật.
+ Hàng thừa kế thứ hai theo quy định của pháp luật dân sự bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại khi không có hàng thừa kế thứ nhất hoặc hàng thừa kế thứ nhất không đủ điều kiện để được hưởng di sản của người chết để lại.
+ Ngoài hai hàng thừa kế trên nếu không có ai được hưởng thì những người ở hàng thừa kế thứ ba sẽ được hưởng di sản bao gồm những người sau đây: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế được hưởng thừa kế theo pháp luật cùng một hàng được hưởng phần di sản bằng nhau khi phân chia di sản thừa kế của người chết. Khi phân chia di sản thừa kế theo pháp luật thì những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản thì mới được chia cho hàng tiếp theo quy định của pháp luật.
Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người chưa thành niên không thể tự mình xác lập thực hiện việc phân chia di sản với những đồng thừa kế khác mà phải thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên là bố mẹ và bố mẹ sẽ tham gia phân chia di sản thừa kế của người để lại di sản một là chính mình vừa là người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên.
Do đó, pháp luật hiện nay, không phân biệt là người đã thành niên hay chưa thành niên đều được hưởng di sản thừa kế như nhau đều bình đẳng trước pháp luật.
2. Chia thừa kế trong trường hợp có con chưa thành niên:
Tóm tắt câu hỏi:
Ông A và bà B là vợ chồng hợp pháp, có tài sản chung là 600 triệu đồng. Bà B có tài sản riêng 180 triệu đồng. Hai người có hai con chung là C (17 tuổi) và D (15 tuổi). Bà B có con riêng là E (20 tuổi, không bị bệnh tâm thần và có khả năng lao động). Năm 2005 bà B chết vì tai nạn giao thông. Bà B đã lập di chúc hợp pháp cho M (em họ) 100 triệu đồng, cho quỹ từ thiện 200 triệu đồng. Hãy chia thừa kế khi bà B chết.
Luật sư tư vấn:
-Trước hết, với câu hỏi của bạn cần xác định giá trị di sản thừa kế của bà B để lại. Theo đó:
+ Tài sản chung của ông A và bà B là 600 triệu đồng. Bà B chết năm 2000, vì vậy chịu sự điều chỉnh Theo Điều 219 Bộ luật dân sự và Điều 27
+ Tài sản riêng của bà B: 180 triệu đồng
Như vậy, tổng số di sản thừa kế mà bà B để lại là: 300+180=480 triệu đồng.
-Theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 675 Bộ luật dân sự:
“Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp không có di chúc…”
Việc phân chia di sản thừa kế của bà B sẽ thực hiện theo nguyên tắc: phân chia theo di chúc trước, phần di sản không được đề cập sẽ phân chia theo pháp luật.
+ Bà B đã lập di chúc hợp pháp cho em họ là bà M là 100 triệu đồng và cho quỹ từ thiện là 200 triệu đồng. Như vậy, tổng số tài sản được bà B đề cập đến trong di chúc là 300 triệu đồng.
+Số tài sản còn lại là 180 triệu đồng (trong tổng số 480 triệu đồng) sẽ được chia theo pháp luật. Theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự: hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Theo đó, có 4 người có quyền hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm: ông A, hai con chung là C, D và con riêng của bà B là E.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 676, những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Như vậy, mỗi người sẽ được hưởng : 180/4=45 triệu đồng.
+ Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự: con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng và con đã thành niên là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Vì vậy, Ông A (chồng), hai con chung là C và D (con chưa thành niên) thuộc trường hợp được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Cũng theo Điều 669, những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản. Như vậy, ông A, hai con C và D vẫn được hưởng thừa kế với phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Một suất thừa kế theo pháp luật là: 480/4=120 triệu đồng
Như vậy, ông A, hai con C, D phải được chia số di sản cho mỗi người là 2/3×120=80 triệu đồng. Vì số tài sản còn lại được chia theo pháp luật và họ chỉ được chia mỗi người là 45 triệu đồng (ít hơn só với 80 triệu đồng) nên theo điều 669, ông A, C, D phải được chia mỗi người là 80 triệu đồng.
-Số tài sản còn lại là: 480-(80×3)=240 triệu đồng
Số tài sản này sẽ được chia theo nguyện vọng của bà B ghi nhận trong di chúc. Tuy nhiên, trong di chúc bà B đã chia cho M 100 triệu và quỹ từ thiện 200 triệu nên tổng số di sản lớn hơn số di sản thừa kế chưa chia còn lại của bà M. Trong trường hợp này, việc chia di sản cho M và quỹ từ thiện sẽ thực hiện theo nguyên tắc theo phần tương ứng. Nghĩa là trong 300 triệu mà bà B ghi nhận trong di chúc thì bà M được hưởng 100 triệu tương ứng 1 phần, quỹ từ thiện được hưởng 200 triệu tươn ứng 2 phần. Chiếu theo tỷ lệ tương ứng, với 240 triệu, bà M sẽ được chia 80 triệu đồng và quỹ từ thiện là 160 triệu đồng.
Như vậy, với câu hỏi của bạn, kết luận cuối cùng là A, C, D và M sẽ được chia mỗi người là 80 triệu đồng và quỹ từ thiện là 160 triệu đồng khi phân chia di sản thừa kế theo pháp luật..