Có 3 căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo thủ tục tố tụng dân sự, quy định tại Điều 283 BLTTDS? Căn cứ kháng nghị bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật?
1. Căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Những căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được pháp luật dựa trên cơ sở các sai lầm, vi phạm pháp luật của
Thứ nhất, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
Kết luận của
Các tình tiết khách quan của vụ án là những tình tiết tồn tại ngoài ý muốn của con người. Để đánh giá nhận thức đúng về các tình tiết vụ án, Tòa án phải có quan điểm toàn diện và khách quan. Mỗi tình tiết phải được tòa án xem xét thận trọng, đánh giá đầy đủ các mặt, các mối liên hệ của nó và phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các tình tiết khác của vụ án. Tòa án phải lấy sự thật làm căn cứ, không được suy diễn hoặc đưa ra những kết luận có tính chất chủ quan trước về vụ án khi chưa xem xét, đánh giá toàn bộ các tình tiết vụ án.
Theo đó, có thể thấy, kết luận của tòa án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án được thể hiện dưới dạng chưa đủ các chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án nhưng tòa án vẫn thực hiện việc giải quyết vụ án nên quyết định của tòa án thiếu cơ sở; Tòa án đánh giá sai chứng cứ, tài liệu của vụ án nên quyết định giải quyết vụ án sai…
Theo đó, để đảm bảo công bằng trong xét xử thì bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã căn cứ vào kết luận không đúng với bản chất của vụ án để giải quyết vụ án được xét lại.
Thứ hai, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự trai qua nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau: khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm… Toàn bộ hoạt động của
Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thực tế, các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường được hiểu dưới các dạng như vi phạm nguyên tắc cơ bản quy định tại Chương II
Thứ ba, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật là việc tòa án đã áp dụng sai các quy định của pháp luật vào việc giải quyết vụ án. Việc áp dụng sai các quy phạm pháp luật dẫn đến hậu quả tòa án quyết định sai quyền, nghĩa vụ của các đương sự. Vì vậy cần phải xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án.
Các sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật thường thể hiện dưới dạng: Tòa án đã áp dụng văn bản pháp luật không đúng, không còn hiệu lực hoặc áp dụng không đúng điều luật, không đúng nội dung quy định tại điều luật,,,
Để phát hiện ra các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, người có quyền kháng nghị phải dựa vào việc kiểm tra công tác xét xử của tòa án cấp dưới; dựa vào việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo,
2. Quy định về thủ tục giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm được áp dụng khi bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Thủ tục này là hình thức đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng dân sự.
Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt, không phải là một cấp xét xử. Tính chất đặc biệt thể hiện ở đặc điểm:
– Giám đốc thẩm là thủ tục xét lại các bản án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải xét xử lại các bản án, quyết định đó.
– Đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
– Căn cứ làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm là khi phát hiện bản án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giải quyết vụ án.
– Chủ thể làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm chỉ có một số người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật (Điều 331 Bộ luật tố tụng dân sự 2015).
– Thủ tục giám đốc thẩm không mở công khai và bắt buộc phải có sự tham gia của viện kiểm sát.
3. Căn cứ kháng nghị bản án phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật
Tóm tắt câu hỏi:
Luật sư cho em hỏi: Khi bản án phúc thẩm đã có hiệu lực, thì hai bên đương sự được quyền sửa đổi không? Và sửa đổi trong những tình huống nào? Mong luật sư trả lời giúp em.
Luật sư tư vấn:
Theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 không có quy định nào quy định về việc đương sự có quyền sửa đổi bản án phúc thẩm.
Khoản 6 Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định: Bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay kể từ ngày tuyên án, đồng nghĩa là đương sự không có quyền kháng cáo bản án phúc thẩm.
Tuy nhiên theo khoản 1 Điều 326 và Điều 352 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, bản án phúc thẩm có thể được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây:
– Căn cứ để kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm:
+ Kết luận tại bản án phúc thẩm không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
+ Thủ tục tố tụng có vi phạm nghiêm trọng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;
+ Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba.
– Căn cứ để kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục tái thẩm:
+ Phát hiện được tình tiết mới quan trọng của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án;
+ Có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định hoặc lời dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng cứ;
+ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên tham gia tố tụng cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật;
+ Bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động khác của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan nhà nước mà Tòa án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị hủy bỏ.
Nếu bạn xét thấy bản án phúc thẩm có một trong những dấu hiệu trên thì bạn có quyền làm đơn gửi tới Chánh án