Thông thường ở các bệnh viện sẽ có cơ sở bán lẻ thuốc trong khuôn viên bệnh viện được tổ chức theo các hình thức nhà thuốc, quầy thuốc. Vậy bệnh viện được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài không?
Mục lục bài viết
1. Bệnh viện được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài không?
Điều 3 Thông tư số 15/2011/TT-BYT về cơ sở bán lẻ thuốc trong bệnh viện có Quy định về tổ chức của cơ sở bán lẻ thuốc, Điều này quy định về tổ chức của cơ sở bán lẻ thuốc như sau:
– Đối với bệnh viện trực thuộc Bộ, bệnh viện tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây được gọi tắt là tỉnh) trừ các bệnh viện chuyên khoa tâm thần, chuyên khoa điều dưỡng, phục hồi chức năng tuyến tỉnh: Giám đốc của bệnh viện phải tự tổ chức cơ sở bán lẻ thuốc. Giám đốc của bệnh viện chịu trách nhiệm về hoạt động (bao gồm cả đảm bảo kinh phí) của cơ sở bán lẻ thuốc.
– Đối với bệnh viện chuyên khoa tâm thần, chuyên khoa điều dưỡng, phục hồi chức năng của tuyến tỉnh; bệnh viện trực thuộc Y tế Ngành; bệnh viện của tuyến huyện, quận, thị xã (sau đây gọi tắt là bệnh viện của tuyến huyện) bao gồm có cả các Trung tâm Y tế huyện ở nơi mà không có Bệnh viện đa khoa huyện riêng; bệnh viện đa khoa khu vực; bệnh viện chuyên khoa khu vực: Nhà nước khuyến khích bệnh viện tự tổ chức cơ sở bán lẻ thuốc. Giám đốc của bệnh viện, Giám đốc Trung tâm Y tế huyện chịu trách nhiệm về các hoạt động (bao gồm cả đảm bảo kinh phí) của những cơ sở bán lẻ thuốc. Trường hợp mà không tự tổ chức được cơ sở bán lẻ thuốc thì bệnh viện có thể liên doanh, liên kết với doanh nghiệp kinh doanh thuốc hoặc là cá nhân tổ chức cơ sở bán lẻ thuốc để đảm bảo cung ứng được đủ thuốc cho bệnh nhân. Giám đốc doanh nghiệp kinh doanh hoặc là cá nhân liên doanh, liên kết cùng chịu trách nhiệm với Giám đốc của bệnh viện hoặc Giám đốc Trung tâm Y tế huyện về hoạt động của các cơ sở bán lẻ thuốc. Giám đốc bệnh viện, Giám đốc của Trung tâm Y tế huyện, Giám đốc doanh nghiệp kinh doanh hoặc là cá nhân liên doanh, liên kết chịu trách nhiệm đảm bảo về kinh phí hoạt động của cơ sở bán lẻ thuốc theo đúng các quy định của pháp luật về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và các quy định có liên quan.
– Bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài không được mở cơ sở bán lẻ thuốc của chính bệnh viện, không được phép liên doanh, liên kết để thành lập cơ sở bán lẻ thuốc, trừ các trường hợp được Chính phủ cho phép triển khai thí điểm. Để đảm bảo được nguồn cung ứng thuốc cho bệnh nhân, bệnh viện tạo điều kiện để cho doanh nghiệp kinh doanh thuốc hoặc cá nhân tổ chức cơ sở bán lẻ thuốc theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định trên thì những bệnh viện sau hoàn toàn được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài, bao gồm:
– Bệnh viện chuyên khoa tâm thần, điều dưỡng, phục hồi chức năng của tuyến tỉnh;
– Bệnh viện mà trực thuộc Y tế Ngành;
– Bệnh viện của tuyến huyện, quận, thị xã (sau đây gọi tắt là bệnh viện của tuyến huyện) bao gồm có cả các Trung tâm Y tế huyện ở nơi không có Bệnh viện đa khoa huyện riêng;
– Các bệnh viện đa khoa khu vực;
– Các bệnh viện chuyên khoa khu vực.
Những bệnh viện sau không được phép liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài, bao gồm có:
– Bệnh viện mà trực thuộc Bộ;
– Bệnh viện của tuyến tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Lưu ý rằng, bệnh viện có vốn đầu tư nước ngoài không được mở cơ sở bán lẻ thuốc của chính bệnh viện, không được phép liên doanh, liên kết để thành lập cơ sở bán lẻ thuốc, trừ các trường hợp được Chính phủ cho phép triển khai thí điểm. Để đảm bảo được nguồn cung ứng thuốc cho bệnh nhân, bệnh viện tạo điều kiện để cho doanh nghiệp kinh doanh thuốc hoặc cá nhân tổ chức cơ sở bán lẻ thuốc theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam.
2. Quy định về trách nhiệm của hoạt động các cơ sở bán lẻ thuốc khi bệnh viện được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài:
Căn cứ khoản 2 Điều 3 Thông tư số 15/2011/TT-BYT về cơ sở bán lẻ thuốc trong bệnh viện thì trách nhiệm của hoạt động các cơ sở bán lẻ thuốc khi bệnh viện được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài được quy định như sau:
– Giám đốc doanh nghiệp kinh doanh hoặc cá nhân liên doanh, liên kết cùng chịu trách nhiệm với Giám đốc của bệnh viện hoặc Giám đốc Trung tâm Y tế huyện về hoạt động của cơ sở bán lẻ thuốc.
– Giám đốc bệnh viện, Giám đốc Trung tâm Y tế huyện, Giám đốc doanh nghiệp kinh doanh hoặc là cá nhân liên doanh, liên kết chịu trách nhiệm đảm bảo về kinh phí hoạt động của cơ sở bán lẻ thuốc theo đúng các quy định về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập và các quy định có liên quan.
3. Nguyên tắc kê đơn thuốc khi bệnh viện được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài:
Căn cứ Điều 4 Thông tư số 52/2017/TT-BYT về việc kê đơn thuốc hóa dược trong điều trị ngoại trú đã được sửa đổi bổ sung bởi Thông tư số 18/2018/TT-BYT thì các nguyên tắc kê đơn thuốc khi bệnh viện được liên kết bán lẻ thuốc với bên ngoài bao gồm:
– Chỉ được kê đơn thuốc sau khi mà đã có kết quả khám bệnh, chẩn đoán bệnh.
– Kê đơn thuốc phù hợp với chẩn đoán bệnh và phù hợp với mức độ bệnh.
– Việc kê đơn thuốc phải đạt được mục tiêu an toàn, hợp lý và hiệu quả. Ưu tiên về việc kê đơn thuốc dạng đơn chất hoặc thuốc generic.
– Việc kê đơn thuốc sẽ phải phù hợp với một trong các tài liệu sau đây:
+ Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị hoặc Hướng dẫn điều trị và chăm sóc HIV/AIDS do Bộ Y tế đã ban hành hoặc là công nhận; Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của các cơ sở khám, chữa bệnh xây dựng theo đúng các quy định của pháp luật trong trường hợp chưa có hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế.
+ Tờ hướng dẫn sử dụng thuốc đi kèm với thuốc mà đã được phép lưu hành
+ Dược thư quốc gia của nước Việt Nam.
– Số lượng thuốc được kê đơn thực hiện theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị hoặc là đủ sử dụng nhưng tối đa không quá 30 (ba mươi) ngày.
– Đối với người bệnh phải khám từ 3 chuyên khoa trở lên trong ngày thì người đứng đầu của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hoặc là người được người đứng đầu cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có ủy quyền (trưởng khoa khám bệnh, trưởng khoa lâm sàng) hoặc là người phụ trách chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh sau khi mà đã xem xét kết quả khám bệnh của các chuyên khoa trực tiếp kê đơn hoặc là phân công bác sỹ có chuyên khoa phù hợp để kê đơn thuốc cho người bệnh.
– Bác sỹ, y sỹ tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến 4 được khám bệnh, chữa bệnh đa khoa và được kê đơn thuốc điều trị của tất cả chuyên khoa thuộc danh mục kỹ thuật ở tuyến 4 (là danh mục kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt).
– Trường hợp cấp cứu người bệnh, bác sĩ, y sĩ kê đơn thuốc để xử trí cấp cứu, phù hợp với tình trạng của chính người bệnh.
– Không được kê vào đơn thuốc những nội dung sau:
+ Các thuốc, chất mà không nhằm mục đích phòng bệnh, chữa bệnh;
+ Các thuốc mà chưa được phép lưu hành hợp pháp tại Việt Nam,
+ Các thực phẩm chức năng;
+ Những mỹ phẩm.
Những văn bản pháp luật được sử dụng trong bài viết:
– Thông tư số 52/2017/TT-BYT về việc kê đơn thuốc hóa dược trong điều trị ngoại trú được sửa đổi bổ sung bởi Thông tư số 18/2018/TT-BYT
– Thông tư số 15/2011/TT-BYT về cơ sở bán lẻ thuốc trong bệnh viện.