Xác định đối tượng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng. Những trường hợp được loại trừ một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
Mục lục bài viết
1. Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng:
Đối với trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm BTTH do xâm phạm tính mạng, sức khỏe nói riêng ngoài việc áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật thì còn áp dụng đối với người khác như cha mẹ của người chưa thành niên, người giám hộ đối với người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân, trường học, bệnh viện, cơ sở dạy nghề…
1.1. Trách nhiệm BTTH của cá nhân:
Trách nhiệm BTTH của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại diện theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ.
Xác định năng lực bồi thường thiệt hại của cá nhân là một vấn đề quan trọng trong xác định đúng trách nhiệm bồi thường của người gây ra thiệt hại. Căn cứ vào độ tuổi, tình trạng tài sản, và khả năng bồi thường thiệt hại của cá nhân, Điều 586
– Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
– Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
– Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.
Việc quy định người người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã dựa trên nguyên tắc quy định rằng các chủ thể này phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Bởi người dưới mười lăm tuổi thì trình độ nhận thức và khả năng điều khiển hành vi còn nhiều hạn chế nên cha, mẹ phải có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do con mình đã gây ra trừ trường hợp tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con có tài sản riêng thì lấy tài sản riêng đó để bồi thường phần còn thiếu.
1.2 Trách nhiệm BTTH của Pháp nhân:
Trách nhiệm BTTH pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm dân sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân hoặc tổ chức giao cho. Đối với trường hợp người của pháp nhân hoặc tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao do đó hành vi của họ được hiểu là hành vi của pháp nhân chính vì vậy theo quy định của pháp luật dân sự thì trách nhiệm trước hết thuộc về pháp nhân, tổ chức. Sau khi người có trách nhiệm bồi thường đã thực hiện xong thì nếu người gây thiệt hại có lỗi sẽ làm phát sinh nghĩa vụ hoàn lại của người có hành vi gây thiệt hại cho pháp nhân, tổ chức đó.
Ví dụ Điều 597 bộ luật dân sự năm 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra: “Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”.
2. Những trường hợp được loại trừ một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng:
2.1. Những trường hợp được loại trừ toàn bộ trách nhiệm:
a. Gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng:
Theo quy định tại Điều 594 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:
“Điều 594. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
Người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại.”
Tuy nhiên trong
Như chúng ta đã biết tính mạng và sức khỏe của con người là những thứ quý giá nhất, không ai có quyền tự do xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng của người khác nếu chưa được pháp luật cho phép, chính vì vậy mỗi người đều có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp liên đến sức khỏe và tính mạng của mình đồng thời cũng có thể tự mình bảo vệ những quyền đó bằng cách “chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm” đến sức khỏe và tính mạng của chúng ta. Tuy nhiên một hành vi chỉ được coi là phòng vệ chính đáng nếu hành vi chống trả chỉ ở mức cần thiết tức là tương quan giữa hành vi chống trả với hành vi xâm phạm là tương xứng với nhau. Mọi hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng đều không được loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ví dụ
b. Gây thiệt hại trong trường hợp tình thế cấp thiết:
Khoản 1 Điều 171 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Tình thế cấp thiết là tình thể của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa trực tiếp lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn.”
Điều 595 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Trường hợp thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì người gây thiệt hại phải bồi thường phần thiệt hại xảy ra do vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết cho người bị thiệt hại.
2. Người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra thì phải bồi thường cho người bị thiệt hại”.
Như vậy người gây thiệt hại không vượt quá tình thế cấp thiết tức là “có hành động gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn chặn” không phải bồi thường thiệt hại mà người phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp này phải là người đã gây ra tình thế cấp thiết dẫn đến thiệt hại xảy ra. Người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải bồi thường khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
– Có nguy cơ thực tế đe dọa cho lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tình thế cấp thiết chỉ là nguy cơ đe dọa gây thiệt hại nhưng thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải cân nhắc tính toán về nguy cơ này. Nguy cơ gây thiệt hại đối với lợi ích được pháp luật bảo vệ có thể xuất phát từ hành vi trái pháp luật của con người, tác động của thiên nhiên, súc vật tấn công,
– Nguy cơ có thực, phải đang bắt đầu, đang diễn ra và chưa kết thúc. Nếu nguy cơ không có thực, đã xảy ra rồi thì không thể tồn tại tình thế cấp thiết
– Nguy cơ đang đe dọa lợi ích được pháp luật bảo vệ là những lợi ích hợp pháp. Đối với các lợi ích không hợp pháp thì không thể viện dẫn là gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết
Việc gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết là biện pháp tốt nhất để ngăn chặn thiệt hại có nguy cơ xảy ra. Trong khi có một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ, với các yếu tố khách quan và chủ quan thì bản thân người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không còn cách nào khác là phải gây thiệt hại cho đối tượng khác (không phải gây thiệt hại cho nguy cơ đe dọa) để ngăn chặn thiệt hại xảy ra.
– Thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Khi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết, bản thân người gây thiệt hại phải cân nhắc, tính toán giữa một bên là hậu quả có thể xảy ra cho đối tượng được pháp luật bảo vệ khi có nguy cơ đe dọa gây thiệt hại với thiệt hại mà mình sẽ gây ra trong tình thế cấp thiết. Do đó, chỉ coi là gây thiệt hại do yêu cầu của tình thế cấp thiết nếu thiệt hại xảy ra là nhỏ hơn so với thiệt hại cần ngăn ngừa.
+ Đối với thiệt hại đến tính mạng con người cần phải được chú ý đặc biệt bởi vì tính mạng con người là cái quý giá nhất không thể so sánh hay đánh đổi bằng bất cứ thứ nào. Về nguyên tắc, không thể hy sinh tính mạng của người khác để bảo vệ tính mạng của bản thân mình. Điều này không phù hợp với quy định về tình thế cấp thiết là hy sinh lợi ích nhỏ để bảo vệ lợi ích lớn. Nó cũng không phù hợp với đạo đức xã hội. Chỉ trong trường hợp rất đặc biệt mới được phép gây thiệt hại đến tính mạng con người.
+ Thiệt hại đến sức khỏe và tài sản của công dân là thiệt hại dễ dàng chúng minh từ thực tiễn. Thiệt hại liên quan đến các quyền tự do cơ bản của công dân, có thể thấy trường hợp này trong các gia đình chăm sóc người thân thích là người bị bệnh tâm thần. Ở đây, vì lợi ích của chính mình mà những người khác phải hạn chế các quyền tự do của họ bằng các hình thức khác như nhốt, giữ trong nhà, theo dõi, giám sát chặt chẽ khi ra đường.
c. Thiệt hại xảy ra do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại:
Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015:
“2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”
Tại Điều 156 Bộ luật dân sự năm 2015 có đưa ra khái niệm về sự kiện bất khả kháng như sau: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
Thực tế có thể lấy ví dụ về sự kiện bất khả kháng như dịch bệnh, thiên tai, địch họa,…
d. Gây thiệt hại trong trường hợp thi hành bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Trong trường hợp người được Nhà nước trao quyền thi hành bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác mà người gây thiệt hại đã thực hiện đúng và đầy đủ các thủ tục theo pháp luật quy định, thi hành đúng đối tượng, thì người này không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mặc dù có thiệt hại xảy ra. Ví dụ người được giao nhiệm vụ tử hình đối với người phạm tội mặc dù đã có hành vi tước đi sinh mạng của người đó nhưng đây không phải hành vi trái pháp luật nên không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
2.2. Những trường hợp được loại trừ một phần trách nhiệm:
Khoản 2 Điều 585 Bộ luật Dân sự quy định:
“Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình”.
So với BLDS 2005 trước đó thì BLDS 2015 bổ sung điều kiện “không có lỗi” để có thể giảm mức bồi thường. Cụ thể, trước đó về điều kiện để có thể giảm mức bồi thường tại BLDS 2005 chỉ đề cập tới người có “lỗi vô ý” trong khi đó thực tiễn xét xử tại Tòa án theo hướng cho giảm mức bồi thường cả trong trường hợp “không có lỗi” (có nhiều trường hợp một người chịu trách nhiệm bồi thường nhưng không có lỗi). Thực ra, người “có lỗi vô ý” đã được yêu cầu giảm mức bồi thường thì người “không có lỗi” nhưng phải bồi thường cần được quyền yêu cầu giảm mức bồi thường. Hay nói cách khác, người gây thiệt hại không có lỗi thì cần được xem xét trách nhiệm với mức độ nhẹ hơn so với trường hợp người gây thiệt hại với lỗi vô ý. Và chúng ta cần nhìn nhận rằng chỉ người có lỗi cố ý mới không xứng đáng được yêu cầu giảm mức bồi thường. Hướng thay đổi mới tại BLDS 2015 này là hoàn toàn phù hợp và thiết thực.
Như vậy, khi đáp ứng đủ cả hai điều kiện sau đây thì người gây thiệt hại được giảm mức bồi thường thiệt hại:
(1) Gây thiệt hại do lỗi vô ý hoặc không có lỗi;
(2) Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài thì người chịu trách nhiệm bồi thường sẽ được giảm mức bồi thường.