Con riêng có được hưởng thừa kế? Quyền thừa kế của con ngoài giá thú? Con rơi ở ngoài có được hưởng thừa kế của bố để lại không?
Trong xã hội ngày nay, tranh chấp đất thừa kế của con ngoài giá thú là một vấn đề phải được giải quyết. Theo tập tục cha ông để lại, cha mẹ thường có ý nguyện để lại tài sản cho con cái (kể cả ngoài hay trong giá thú), người đã phụng dưỡng mình. Tuy nhiên, khi cha mẹ mất đi thì lại xảy ra các vấn đề rất phức tạp giữa những người được hưởng thừa kế với nhau. Vậy trong trường hợp con sinh ra ngoài ra thú thì có được hưởng quyền thừa kế như thế nào khi người để lại di sản mất đi. Nếu đang quan tâm về vấn đề này mời bạn đọc quan tâm theo dõi bài viết dưới đây.
Mục lục bài viết
1. Định nghĩa con ngoài giá thú
Theo cách hiểu thông thường, con ngoài giá thú được hiểu là con sinh ra giữa những nam và nữ không có quan hệ hôn nhân với nhau (có thể là con riêng hoặc con chung). Mặc dù quan hệ tình cảm không kết hôn đó không được pháp luật công nhận nhưng để bảo vệ quyền lợi của những đứa trẻ, pháp luật cũng đã có những quy định nhất định nhằm bảo đảm được lợi ích của trẻ, tạo điều kiện để trẻ được học tập và phát triển.Trong pháp luật không có định nghĩa nào về con ngoài giá thú là gì. Tuy nhiên, hiểu theo lẽ thông thường thì con ngoài giá thú là con được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp.Pháp luật Việt Nam chỉ công nhận một cuộc hôn nhân hợp pháp khi các bên đủ điều kiện kết hôn và thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Quyền thừa kế theo quy định của pháp luật
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 tại điều 609 về quyền thừa kế như sau:
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.
Theo như quy định trên thì cá nhân có quyền sở hữu tài sản thì có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình cho người khác hưởng sau khi chết. Việc lập di chúc phải tuân theo các quy định của pháp luật về điều kiện có hiệu lực di chúc. Trường hợp cá nhân không lập di chúc, thì tài sản để lại của mình cho những người thừa kế theo quy định của pháp luật. Pháp luật quy định trình tự, thủ tục chuyển dịch di sản của người để lại thừa kế cho những người thừa kế.
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật có quyền nhận hoặc từ chối nhân di sản, trừ trường hợp việc từ chối đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba. Thừa kế theo pháp luật phát sinh dựa trên một trong các quan hệ sau: hôn nhân, huyết thống, hoặc nuôi dưỡng. Thừa kế theo di chúc phát sinh theo ý chí chủ quan của người lập di chúc mà không có điều kiện bắt buộc. Người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình cho bất kỳ chủ thể nào, vì vậy, nếu di chúc chỉ định pháp nhân thì pháp nhân đó là người thừa kế theo di chúc.
3. Người thừa kế theo quy định của pháp luật
Điều 613. Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Sau khi mở thừa kế, quyền và nghĩa vụ của người để lại thừa kế sẽ được chuyển cho những người khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người được hưởng các quyền và phải thi hành các nghĩa vụ đó gọi là người thừa kế. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức, là người được chỉ định trong di chúc. Người thừa kế theo pháp luật là những người có quan hệ gia đình và người để lại di sản, do vậy người thừa kế theo pháp luật phải là cá nhân.
Trường hợp người thừa kế theo pháp luật là cá nhân theo quy định của pháp luật:Trường hợp người chết không có di chúc định đoạt tài sản của mình, thì di sản được chia theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp luật quy định những người được hưởng di sản phải là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản. Khi người có tài sản chết, mọi quan hệ pháp luật chấm dứt đối với người đó, nhưng sự kiện chết sẽ làm phát sinh những quan hệ phát luật khác. Kể từ thời điểm mở thừa kế, quan hệ pháp luật thừa kế được phát sinh.
Những người thừa kế sẽ tham gia vào quan hệ này với tư cách là chủ thể, cho nên họ phải có năng lực chủ thể pháp luật quy định. Tuy nhiên có những trường hợp pháp luật quy định khi phân chia di sản nếu người vợ góa đang mang thai, thì phải dành một phần để thai nhi được sinh ra và còn sống sẽ là người thừa kế của người chết và được hưởng phần di sản đó.
Như vậy, nếu một người chưa thành thai vào thời điểm mở thừa kế nhưng sinh ra mà chết ngay thì không được hưởng di sản thừa kế. Người thừa kế theo pháp luật phải có quan hệ gia đình với người để lại di sản, cho nên người thừa kế sinh ra còn sống và đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế thì mặc nhiên được coi là con hoặc là cháu của người đã chết. Theo khoản 1 điều 88
Muốn xác định người con sinh ra sau khi bố chết đã thành thai vào thời điểm mở thừa kế hay chưa, dung phương pháp suy đoán pháp lý là một thai nhi tồn tại tối đa khoảng 300 ngày khoản 1 điều 88 luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nếu con sinh ra trong vòng 300 ngày kể từ thời điểm mở thừa kế là con do người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân, cho nên là con chung của vợ chồng.
4. Người thừa kế theo quy định của pháp luật
Theo quy định của
4.1.Người thừa kế theo quy định của pháp luật:
Theo bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về người thừa kế cụ thể như sau:
Điều 651: Người thừa kế theo pháp luật:
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Diện thừa kế là phạm vi những người có quyền hưởng di sản của người chết theo quy định của pháp luật. Diện những người thừa kế được xác định dựa trên ba mối quan hệ với người để lại di sản : hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng trên cơ sở kết hôn hợp pháp ( theo các điều kiện do pháp luật quy định tại thời điểm kết hôn). Trên cơ sở quan hệ huyết thống từ gần đến xa, pháp luật phân chia diện những người thừa kế thành các hàng thừa kế. Quan hệ thừa kế giữa cha mẹ đẻ với con đẻ và cha mẹ nuôi và con nuôi: Cha đẻ, mẹ đẻ của một người là người đã sinh ra người đó.
Do vậy, cha mẹ của người con trong giá thú hoặc ngoài giá thú đều là người thừa kế ở hàng thứ nhất của con mình và ngược lại. Đối với quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi sẽ là hàng thừa kế thứ nhất của nhau nếu việc nhận nuôi được đăng ký theo quy định của pháp luật.
Hàng thừa kế thứ hai: Để xác định hàng thừa kế thứ hai cần làm rõ các khái niệm ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại và anh chị em ruột. Cụ thể ông nội, bà nội là người đã sinh ra cha của một người; ông ngoại, bà ngoại là người đã sinh ra mẹ của người đó. Anh, chị, em ruột là những người có cùng ít nhất cha hoặc mẹ. Quan hệ này chỉ được xác định trên quan hệ huyết thống.
Hàng thừa kế thứ ba: Cụ nội là người đã sinh ra ông nội hoặc bà nôi của một người. Tương tụ cụ ngoại là người đã sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại của người đó. Bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của một người là những anh, chị, em ruột của bố đẻ hoặc mẹ đẻ của người đó.
4.2: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định của pháp luật:
Theo quy định của điều 644 của bộ luật dân sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định cụ thể như sau:
Điều 644: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc:
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của bộ luật này.
Trong trường hợp thừa kế theo di chúc, thì tài sản được chia theo ý nguyện của người để lại di chúc. Tuy nhiên, pháp luật dân sự có quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Điều 644 Bộ luật Dân sự 2015 quy định những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Như vậy,Nếu có tên con ngoài giá thú trong di chúc hưởng di sản là đất thì con ngoài giá thú được quyền thừa kế phần đất tương ứng với di chúc. Nếu trong di chúc mà không có tên con ngoài giá thú thì không được hưởng di chúc, trừ trường hợp dưới 18 tuổi hoặc mất khả năng lao động thì được hưởng 2/3 của 1 phần thừa kế theo pháp luật từ di sản để lại.