Thuốc chữa bệnh và thuốc phòng bệnh là loại hàng hóa đặc biệt, liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. Tuy nhiên, tình trạng sản xuất, buôn bán thuốc giả vẫn diễn biến phức tạp, với nhiều thủ đoạn tinh vi. Nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm này, Bộ luật Hình sự 2015 đã quy định tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh tại Điều 194, với mức hình phạt nghiêm khắc.
Mục lục bài viết
- 1 1. Khái quát chung về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
- 2 2. Cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
- 3 3. Khung hình phạt của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
- 4 4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
- 5 5. Phân biệt với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
- 6 6. Tác động tiêu cực của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh và biện pháp ngăn chặn:
- 7 7. Bản án điển hình của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
1. Khái quát chung về Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
1.1. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh là gì?
Trong những năm gần đây, tình trạng sản xuất và buôn bán thuốc giả ở Việt Nam diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi. Các đường dây sản xuất thường sử dụng vỏ bao bì giống hệt hàng thật hoặc nhập lậu thuốc giả từ nước ngoài về tiêu thụ trong nước.
Nhiều vụ án lớn đã bị phát hiện liên quan đến thuốc trị ung thư, thuốc kháng sinh, thuốc bổ… kém chất lượng hoặc hoàn toàn giả mạo. Hậu quả không chỉ dừng lại ở thiệt hại kinh tế mà còn trực tiếp đe dọa tính mạng, sức khỏe của người bệnh, làm mất niềm tin của người dân vào hệ thống y tế và gây bất ổn xã hội. Dù cơ quan chức năng đã tăng cường kiểm tra, xử lý nhưng vì lợi nhuận quá lớn nên loại tội phạm này vẫn có xu hướng gia tăng.
Vì vậy có thể đưa ra khái niệm vềTội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh như sau:
“Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được hiểu là hành vi cố ý làm ra hoặc đưa vào lưu thông các loại thuốc giả, không có hoạt chất, có hoạt chất nhưng không đủ hàm lượng hoặc chứa chất cấm, chất độc hại, làm giả về nhãn mác hoặc bao bì… nhằm thu lợi bất chính. Đây là một dạng đặc biệt của tội buôn bán hàng giả, trong đó đối tượng tác động trực tiếp là thuốc chữa bệnh và thuốc phòng bệnh (loại hàng hóa đặc biệt) có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. Vì thế hành vi này bị coi là tội phạm và bị xử lý bằng chế tài hình sự nghiêm khắc.”
1.2. Ý nghĩa của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh trong pháp luật hình sự:
Việc hình sự hóa hành vi sản xuất, buôn bán thuốc giả mang nhiều ý nghĩa quan trọng:
- Thứ nhất, bảo vệ tính mạng và sức khỏe của nhân dân: Thuốc giả không đem lại hiệ quả trong điều trị mà còn có thể gây biến chứng trên cơ thể người, ngộ độc hoặc tử vong. Xử lý nghiêm hành vi này chính là bảo vệ quyền sống và quyền được chăm sóc y tế của con người.
- Thứ hai, bảo vệ niềm tin vào hệ thống y tế: Khi Nhà nước kiên quyết xử lý thuốc giả thì người dân sẽ yên tâm hơn trong việc tiếp cận dịch vụ khám, chữa bệnh và sử dụng thuốc theo chỉ định của bác sĩ.
- Thứ ba, đảm bảo môi trường kinh doanh dược phẩm lành mạnh: Doanh nghiệp dược phẩm chân chính sẽ được cạnh tranh công bằng, không bị “chèn ép” bởi nguồn thuốc giả giá rẻ và kém chất lượng.
- Thứ năm, thực hiện cam kết quốc tế: Việt Nam là thành viên của nhiều hiệp định thương mại, trong đó có các điều khoản về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chống hàng giả, đặc biệt trong lĩnh vực y tế. Quy định tội danh này thể hiện sự tuân thủ và hội nhập pháp luật quốc tế.
- Thứ sáu, tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về dược phẩm: Quy định và xử lý nghiêm khắc tội danh này góp phần nâng cao hiệu quả thanh tra và kiểm soát thị trường dược, từ đó siết chặt kỷ luật trong hoạt động sản xuất và lưu thông thuốc.
1.3. Cơ sở pháp lý của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh hiện nay đang được quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự 2015 như sau:
“1. Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Buôn bán qua biên giới;
g) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
h) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
i) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
k) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:
a) Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Thu lợi bất chính từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng;
c) Làm chết người;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
e) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Thu lợi bất chính 2.000.000.000 đồng trở lên;
b) Làm chết 02 người trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên;
d) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
6. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:
a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng;
b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, e, g, h, i và k khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng;
c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng;
d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, thì bị phạt tiền từ 15.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm;
đ) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
e) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”
2. Cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
2.1. Khách thể:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh xâm phạm trực tiếp đến: Trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước. Cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng hoá và chống hàng giả.
Đối tượng tác động của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh là: Thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.
2.2. Mặt khách quan:
Mặt khách quan của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được thể hiện thông qua 02 nhóm hành vi chính:
- Sản xuất hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;
- Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.
Cụ thể như sau:
a. Hành vi sản xuất hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
Sản xuất: Là việc tạo ra các sản phẩm mang hình thức, nhãn hiệu, bao bì, kiểu dáng giống hệt hoặc tương tự đến mức có thể khiến người tiêu dùng nhầm lẫn với thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh thật của các cơ sở sản xuất, kinh doanh hợp pháp. Những cơ sở này thường đã được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được thừa nhận theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Việc sản xuất có thể được thực hiện dưới nhiều phương thức khác nhau như: chế tạo, chế biến, sao chép, pha chế, điều chế, nhân giống… Trong thực tiễn, phần lớn thuốc giả được sản xuất bằng quy trình công nghiệp và trải qua nhiều công đoạn từ khâu nguyên liệu cho đến sản phẩm cuối cùng. Mục đích chung là tạo ra loại thuốc trông như thật nhưng thực chất không có tác dụng chữa bệnh, thậm chí còn gây hại cho sức khỏe người dùng.
b. Hành vi buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
Buôn bán: Là hành vi đưa thuốc giả ra thị trường dưới nhiều hình thức khác nhau, bao gồm: Mua đi bán lại, xin để phân phối, tàng trữ nhằm bán, vận chuyển để tiêu thụ, trao đổi bằng hàng hóa hoặc tài sản (không phải tiền), dùng để thanh toán hoặc đổi lấy thuốc giả để tiếp tục bán ra… Tất cả những hành vi này đều có điểm chung là nhằm mục đích cuối cùng đó là đưa thuốc giả đến tay người tiêu dùng để thu lợi bất chính.
c. Hậu quả của hành vi phạm tội:
Hành vi sản xuất, buôn bán thuốc giả gây ra những hậu quả hết sức nghiêm trọng thể hiện trên phương diện:
- Đối với con người: đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của người sử dụng.
- Đối với xã hội: gây thiệt hại về tài sản, ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế, văn hóa và an sinh xã hội.
- Đối với doanh nghiệp: xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, từ đó làm tổn hại đến lợi ích vật chất, uy tín và thương hiệu của các doanh nghiệp dược phẩm hợp pháp.
Lưu ý: Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. Chỉ cần có hành vi sản xuất hoặc buôn bán thuốc giả thì tội phạm đã được coi là hoàn thành, không phụ thuộc vào việc hậu quả thực tế xảy ra hay chưa.
d. Thời điểm tội phạm hoàn thành:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được xác định là hoàn thành ngay khi người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất hoặc buôn bán thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh giả; bất kể sản phẩm đó đã được tiêu thụ hay chưa, đã gây thiệt hại thực tế hay chưa.
2.3. Chủ thể:
Chủ thể của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh có thể là cá nhân hoặc pháp nhân thương mại. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với chủ thể là cá nhân: Người phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự theo Điều 12 và Điều 21 Bộ luật Hình sự 2015.
Thứ hai, đối với chủ thể là pháp nhân thương mại: Được thành lập và hoạt động theo đúng quy định của pháp luật doanh nghiệp và thỏa mãn điều kiện quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
- Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
- Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
2.4. Mặt chủ quan:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được thực hiện với lỗi cố ý. Có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp.
Tức là nhận thức rõ hành vi của mình là hành vi sản xuất hàng giả hoặc biết rõ là hàng giả nhưng vẫn buôn bán; thấy trước được hậu quả của của hành vi và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Động cơ, mục đích của người phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh. Tuy nhiên việc xác định mục đích của người phạm tội trong trường hợp này có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
3. Khung hình phạt của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định khung hình phạt đối với cả cá nhân và pháp nhân thương mại phạm tội.
3.1. Khung hình phạt đối với cá nhân phạm tội:
- Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
- Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.
- Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
- Khung 4: Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
- Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
3.2. Khung hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội:
Theo khoản 6 Điều 194 Bộ luật Hình sự 2015 quy định khung hình phạt như sau:
- Khung 1: Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng.
- Khung 2: Bị phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng.
- Khung 3: Phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng.
- Khung 4: Phạt tiền từ 15.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm.
- Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.
4. Các tình tiết định khung tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:
4.1. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
- Có tổ chức theo điểm a khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Hành vi phạm tội được thực hiện có tổ chức tức là có sự cấu kết giữa nhiều người và có phân công vai trò rõ ràng từ khâu sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ đến che giấu hành vi. Đây là hình thức phạm tội nguy hiểm cao, mang tính chuyên nghiệp, khó bị phát hiện và thường gây hậu quả lớn cho xã hội. Do đó pháp luật quy định đây là tình tiết tăng nặng để áp dụng khung hình phạt nghiêm khắc hơn.
- Có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Người phạm tội coi việc sản xuất, buôn bán thuốc giả như một nghề kiếm sống thường xuyên, có sự đầu tư phương tiện, kỹ thuật và nguồn lực. Điều này cho thấy sự cố ý, bền bỉ và nguy hiểm trong hành vi, từ đó gây tác động lâu dài đến xã hội. Vì thế tính chất chuyên nghiệp được xem là yếu tố tăng nặng và cần áp dụng ở khung hình phạt cao hơn.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn theo điểm c khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức để sản xuất, buôn bán thuốc giả thì tính chất phạm tội sẽ nguy hiểm hơn so với trường hợp phạm tội thông thường. Họ không chỉ vi phạm pháp luật mà còn làm mất niềm tin của xã hội vào bộ máy nhà nước và cơ quan quản lý y tế. Do đó tình tiết này được coi là tăng nặng để bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật.
- Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức theo điểm d khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Trường hợp phạm tội dưới danh nghĩa cơ quan hoặc tổ chức sẽ tạo sự tin tưởng giả tạo cho người tiêu dùng, khiến thuốc giả dễ dàng lưu hành trên thị trường. Hành vi này đặc biệt nguy hiểm vì làm xói mòn uy tín của các cơ quan, tổ chức hợp pháp và gây hậu quả nghiêm trọng hơn cho xã hội. Vì vậy tình tiết này sẽ bị xử lý theo khung hình phạt tăng nặng.
- Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá từ 150.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm đ khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Giá trị 150 triệu đến dưới 500 triệu đồng phản ánh quy mô lưu hành lớn của hàng giả, cho thấy hành vi không còn nhỏ lẻ mà có tổ chức sản xuất/tiêu thụ đáng kể trên thị trường. Cách xác định “tương đương số lượng hàng thật” hoặc “hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng” nhằm bảo đảm so sánh khách quan về giá trị và công dụng của hàng giả với hàng thật. Khi tới giá trị này, nguy cơ làm méo mó cạnh tranh, lừa dối người tiêu dùng và gây thiệt hại kinh tế đã ở mức nghiêm trọng. Vì thế cần thiết phải áp dụng khung hình phạt cao hơn.
- Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng theo điểm e khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Tiêu chí thu lợi bất chính nhấn mạnh động cơ vụ lợi và hậu quả kinh tế trực tiếp của hành vi phạm tội. Khi khoản lợi nhuận thu được từ việc sản xuất, buôn bán hàng giả đạt 100 triệu đến dưới 500 triệu đồng, chứng tỏ tính thương mại hóa cao, phạm tội có tính toán, lặp lại và gây cạnh tranh không lành mạnh rõ rệt. Mức lợi bất chính càng lớn càng thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội. Vì thế tình tiết này được xác định là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình phạt để đảm bảo tính răn đe.
Làm chết người theo điểm g khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Hàng giả – đặc biệt trong các nhóm thực phẩm, mỹ phẩm, linh kiện an toàn, hóa chất hoặc phụ tùng… có thể gây hậu quả trực tiếp đến tính mạng khi người tiêu dùng sử dụng. Việc “làm chết người” thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả chết người, thể hiện tính nguy hiểm đặc biệt của tội phạm hàng giả. Ở mức độ này, bảo vệ an toàn công cộng và quyền sống được đặt lên hàng đầu. Vì thế pháp luật bắt buộc phải áp dụng khung hình phạt cao hơn đối với trường hợp này.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên theo điểm h khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Tổn thương cơ thể từ 61% trở lên là mốc thương tật nặng theo pháp y, chứng tỏ hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với một nạn nhân. Với hàng giả, hậu quả có thể phát sinh từ chất lượng/đặc tính nguy hiểm của hàng (ví dụ: linh kiện giả gây tai nạn, hóa chất giả gây ngộ độc…). Khi mức tổn hại vượt mốc 61% thì hành vi vi phạm đã xâm phạm nghiêm trọng quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Vì thế cần áp dụng mức hình phạt ở khung hình phạt tăng nặng hơn.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121% theo điểm i khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Tình tiết này gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nhiều người, không chỉ một người bị hại nặng mà nhiều người cùng chịu tổn thương với tổng tỷ lệ cộng gộp từ 61% đến 121%. Việc dùng tổng tỷ lệ thương tật giúp phản ánh mức độ ảnh hưởng cộng đồng của hàng giả. Dù mỗi nạn nhân có thể dưới 61% nhưng tổng hợp lại thể hiện hậu quả rộng và nghiêm trọng, do đó cần áp dụng mức hình phạt ở khung hình phạt tăng nặng hơn.
- Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng theo điểm k khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Thiệt hại tài sản (thiệt hại cho người tiêu dùng, doanh nghiệp chân chính, thị trường…) từ 500 triệu đến dưới 1 tỷ 500 triệu đồng cho thấy tác động kinh tế lớn của hàng giả. Thiệt hại này bao gồm các khoản như: Giá trị hàng bị hư hỏng, chi phí khắc phục, doanh thu mất mát, uy tín thương hiệu… bị xâm hại có thể lượng hóa bằng tiền. Vượt ngưỡng 500 triệu đồng thì hậu quả đã ở mức nghiêm trọng hơn đối với kinh tế xã hội. Vì thế cần áp dụng mức hình phạt ở khung hình phạt tăng nặng hơn.
- Buôn bán qua biên giới theo điểm l khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Buôn bán hàng giả qua biên giới thường gắn với đường dây, mạng lưới và thủ đoạn che giấu tinh vi, gây khó khăn cho kiểm soát hải quan, đe dọa an ninh kinh tế và làm phức tạp quan hệ thương mại quốc tế. Yếu tố xuyên biên giới cho thấy phạm vi địa lý mở rộng, quy mô lớn, tiềm ẩn tái phạm cao. Vì vậy, pháp luật coi đây là tình tiết tăng nặng để trấn áp hiệu quả các đường dây hàng giả quốc tế.
- Tái phạm nguy hiểm theo điểm m khoản 2 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Theo Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015, những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
+ Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
+ Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
4.2. Các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng theo khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
- Hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật hoặc hàng hóa có cùng tính năng kỹ thuật, công dụng trị giá 500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi số lượng thuốc giả đạt giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, tức là quy mô sản xuất và buôn bán ở mức rất lớn. Điều này đồng nghĩa với khả năng lưu hành trên thị trường rộng rãi, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng đối với xã hội, nhất là trong lĩnh vực y tế. Đây là tình tiết thể hiện tính chất đặc biệt nguy hiểm với khung hình phạt tăng nặng từ 12 đến 20 năm tù.
- Thu lợi bất chính 500.000.000 đồng trở lên theo điểm b khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Khoản lợi bất chính từ hành vi phạm tội đạt mức 500 triệu đồng trở lên đã cho thấy người phạm tội đã trục lợi ở quy mô lớn, có thái độ coi thường pháp luật và sức khỏe cộng đồng. Mức thu lợi này phản ánh động cơ vụ lợi rõ ràng, đồng thời cho thấy hậu quả kinh tế nghiêm trọng. Vì vậy pháp luật xếp tình tiết này vào khung hình phạt cao để răn đe mạnh mẽ.
- Làm chết 02 người trở lên theo điểm c khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Thuốc giả trực tiếp ảnh hưởng đến tính mạng con người. Khi hậu quả làm chết từ 2 người trở lên, đây là mức độ đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện tính chất cực kỳ nguy hiểm của hành vi. Không chỉ gây thiệt hại về tính mạng mà còn để lại hệ lụy nặng nề cho gia đình và xã hội. Do đó pháp luật quy định tình tiết này trong khung hình phạt rất nghiêm khắc (12 đến 20 năm tù), thậm chí có thể dẫn đến tù chung thân hoặc tử hình nếu hậu quả đặc biệt lớn.
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên điểm d khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Khi hành vi buôn bán và sản xuất thuốc giả gây hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe từ 2 người trở lên với tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể cộng dồn đạt 122% trở lên, điều này thể hiện mức độ tổn hại lớn và lan rộng. Đây là tình tiết cho thấy hậu quả trực tiếp, rõ ràng đến sức khỏe con người. Vì thế pháp luật quy định xử lý ở mức hình phạt cao để bảo đảm tính nghiêm minh.
- Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên theo điểm đ khoản 3 Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015:
Ngoài hậu quả về sức khỏe, hành vi này còn có thể gây thiệt hại lớn về tài sản cho người tiêu dùng, doanh nghiệp, cơ sở y tế và Nhà nước. Mức thiệt hại từ 1,5 tỷ đồng trở lên cho thấy mức độ thiệt hại đặc biệt lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Vì vậy tình tiết này được coi là yếu tố tăng nặng đặc biệt cần được áp dụng khung hình phạt nặng hơn với mức hình phạt từ 12 đến 20 năm tù.
5. Phân biệt với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả:
Tiêu chí | Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 192 Bộ luật Hình sự 2015) | Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194 Bộ luật Hình sự 2015) |
Khách thể bị xâm phạm | Trật tự quản lý kinh tế, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng, doanh nghiệp. | Ngoài trật tự quản lý kinh tế, còn trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng con người. |
Đối tượng hàng giả | Mọi loại hàng hóa giả mạo (hàng hóa không đúng chất lượng, công dụng và đặc tính…). | Hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh – nhóm hàng đặc biệt liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. |
Khung hình phạt | Khung 1: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Khung 3: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm. | Khung 1: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Khung 2: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm. Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Khung 4: Phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. |
Hình phạt bổ sung | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. | Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. |
Trách nhiệm pháp nhân thương mại | Khung 1: Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng. Khung 2: Phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 6.000.000.000 đồng. Khung 3: Phạt tiền từ 6.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm. Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. | Khung 1: Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng. Khung 2: Bị phạt tiền từ 4.000.000.000 đồng đến 9.000.000.000 đồng. Khung 3: Phạt tiền từ 9.000.000.000 đồng đến 15.000.000.000 đồng. Khung 4: Phạt tiền từ 15.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 01 năm đến 03 năm. Hình phạt bổ sung: Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm. |
Tính chất nguy hiểm | Nguy hiểm cho trật tự kinh tế, quyền lợi người tiêu dùng và uy tín thương mại. | Đặc biệt nguy hiểm vì liên quan trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người nên mức hình phạt nặng hơn nhiều. |
Ý nghĩa pháp lý | Bảo vệ sự minh bạch của thị trường, quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng. | Bảo vệ tính mạng, sức khỏe nhân dân; đồng thời bảo đảm an ninh y tế và chống lại hiểm họa từ thuốc giả. |
6. Tác động tiêu cực của hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh và biện pháp ngăn chặn:
6.1. Tác động tiêu cực:
a. Nguy hiểm trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe con người:
Thuốc giả không có hoạt chất hoặc có hoạt chất nhưng không đủ hàm lượng, thậm chí chứa tạp chất độc hại, có thể khiến bệnh không được chữa trị kịp thời mà còn gây biến chứng nặng hoặc tử vong. Đặc biệt với các bệnh hiểm nghèo như ung thư, tim mạch, tiểu đường, hậu quả càng nghiêm trọng khi bệnh nhân mất cơ hội để điều trị. Đây là tác động nguy hiểm nhất và trực tiếp nhất mà hành vi này gây ra.
b. Làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào hệ thống y tế:
Khi các vụ việc thuốc giả bị phát hiện, người dân dễ hoang mang, lo lắng và mất lòng tin vào hiệu quả điều trị cũng như chất lượng thuốc do bệnh viện và nhà thuốc cung cấp. Điều này gây ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, làm suy giảm hiệu quả phòng bệnh và chữa bệnh trên phạm vi xã hội.
c. Gây thiệt hại lớn về kinh tế và môi trường cạnh tranh:
Thuốc giả giá rẻ tràn vào thị trường khiến doanh nghiệp dược phẩm làm ăn chân chính bị cạnh tranh không lành mạnh, mất thị phần và mất doanh thu. Nhà nước cũng bị thất thu thuế, ngân sách y tế bị lãng phí do phải khắc phục hậu quả điều trị bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi thuốc giả. Đây là tác động kinh tế nghiêm trọng và làm suy yếu nền công nghiệp dược trong nước.
d. Ảnh hưởng đến uy tín quốc gia và quan hệ quốc tế:
Việc để thuốc giả lưu hành phổ biến sẽ làm giảm uy tín của ngành dược Việt Nam trên trường quốc tế, ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu, hợp tác y tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời nếu thuốc giả buôn bán xuyên biên giới, Việt Nam có thể bị đánh giá là điểm nóng về tội phạm dược phẩm, từ đó làm phức tạp hơn quan hệ thương mại quốc tế.
6.2. Biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm:
a. Hoàn thiện pháp luật và siết chặt quản lý:
Nhà nước cần bổ sung, sửa đổi các quy định pháp luật về dược, quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp, nhà thuốc và cơ quan quản lý. Đồng thời tăng cường cơ chế hậu kiểm, truy xuất nguồn gốc thuốc và bảo đảm mọi khâu từ sản xuất, nhập khẩu đến lưu thông đều được giám sát chặt chẽ.
b. Ứng dụng công nghệ hiện đại chống giả:
Cần áp dụng công nghệ in tem chống giả, mã QR, chip điện tử… để quản lý nguồn gốc thuốc. Việc người dân chỉ cần quét mã có thể truy ra xuất xứ, thành phần và lộ trình phân phối thuốc sẽ hạn chế đáng kể khả năng thuốc giả xâm nhập thị trường.
c. Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm:
Cơ quan chức năng cần tổ chức kiểm tra đột xuất tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh và nhập khẩu thuốc. Các vụ án phát hiện phải được điều tra, truy tố và xét xử nghiêm minh công khai nhằm răn đe, đặc biệt áp dụng triệt để Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với hành vi nguy hiểm.
d. Nâng cao nhận thức cộng đồng:
Người dân cần được phổ biến kiến thức nhận diện thuốc thật/giả và nâng cao cảnh giác khi mua thuốc, đặc biệt chỉ mua tại nhà thuốc uy tín. Bác sĩ và nhân viên y tế cũng phải thận trọng khi kê đơn, cấp phát thuốc và kịp thời phát hiện bất thường để ngăn ngừa hậu quả.
Ngoài ra, do tính chất xuyên biên giới của thuốc giả nên Việt Nam cần phối hợp với Interpol, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng như các nước trong khu vực để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và phối hợp triệt phá các đường dây buôn bán thuốc giả xuyên quốc gia.
7. Bản án điển hình của Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh:
- Tên bản án:
Bản án về tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh số 43/2022/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội.
- Nội dung vụ án:
Đinh Thị H có quen biết Nguyễn Thị Phúc H2 do cùng là nghề buôn bán thuốc tự do tại chợ thuốc Hapulico ở Thanh Xuân, Hà Nội. Ngày 25/8/2020, H2 đặt mua của H 20 lọ thuốc Pharcoter loại 400 viên nén, do H2 không có loại thuốc này. H dùng tài khoản Facebook “Cô chủ nhỏ” đăng bài trên mạng và hỏi mua của tài khoản “Nguyễn Phương” 20 lọ thuốc Pharcoter loại 400 viên nén với giá 225.000 đồng/1 lọ, sau đó bán lại cho H2 với giá 230.000 đồng/01 lọ để H2 bán cho khách với giá 240.000 đồng/01 lọ. H2 gửi thông tin khách hàng cho H trực tiếp gửi thuốc đến cho khách. Sau khi khách dùng thuốc phát hiện thuốc kém chất lượng và trả lại thì H biết số thuốc trên là giả và trả lại cho người dùng tài khoản “Nguyễn Phương”.
Đến ngày 18/9/2020, anh Nguyễn Thành Đ liên hệ với H2 đặt mua 144 lọ thuốc Pharcoter loại 400 viên nén với giá 240.000 đồng/01 lọ, tổng số tiền là 34.560.000 đồng, giao nhận thuốc vào ngày 21/9/2020. Sáng ngày 21/9/2020, Đ trao đổi với H2 qua điện thoại để chuyển 10.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng 22210003003980 mở tại Ngân hàng BIDV của H để đặt trước, khi nào nhận hàng sẽ thanh toán nốt số tiền còn lại. Sau đó, H2 trao đổi lại với H đặt mua thuốc và H chuyển thuốc đến địa chỉ của Đ. H đồng ý và tiếp tục liên hệ tài khoản Facebook “Nguyễn Phương” mua 144 lọ thuốc Pharcoter loại 400 viên nén với giá 225.000 đồng/01 lọ, bán cho H2 với giá 230.000 đồng/ 01lọ.
Đến trưa ngày 21/9/2020, H nhận được thuốc tại Cổng chợ thuốc Hapulico và kiểm tra toàn bộ số thuốc trên thấy có đặc điểm giống thuốc giả mà H đã trả lại vào ngày 20/8/2020 (đều sản xuất ngày 15/12/2019, lô sản xuất 18047, hạn dùng 15/12/2022) nhưng H vẫn đóng vào thùng cát tông rồi giao cho anh Phạm Văn K là xe ôm ở chợ thuốc do H2 thuê để vận chuyển thuốc đến giao hàng cho anh Đ tại cổng siêu thị Lanchi Mart ở TK Phú Mỹ, TT Phú Xuyên. Khoảng 15 giờ ngày 21/9/2020, anh K đang đứng chờ giao hàng tại cổng siêu thị Lanchi thì bị lực lượng công an huyện Phú Xuyên kiểm tra hành chính phát hiện và đưa tang vật về trụ sở giải quyết theo quy định.
Tại bản Cáo trạng số 23/CT-VKS ngày 23/5/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Xuyên truy tố bị cáo Đinh Thị H về tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
- Quyết định của Tòa án:
+ Bị cáo Đinh Thị H phạm tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh”.
+ Bị cáo Đinh Thị H 30 (ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án.
+ Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội – là nơi bị cáo đăng ký hộ khẩu thường trú, kết hợp gia đình bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
THAM KHẢO THÊM: