4 mùa trong năm đối với mỗi người đều có cảm nhận và cái nhìn khác nhau. Mùa thu cũng là mùa mà khơi gợi cảm hứng sáng tác nhiều nhất của các văn nghệ sĩ bởi chất trữ tình mà mùa thu mang lại. Dưới đây là bài văn phân tích Câu cá mùa thu (Thu điếu) của Nguyễn Khuyến hay nhất và chọn lọc nhất.
Mục lục bài viết
1. Hướng dẫn phân tích bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:
Mở bài:
– Giới thiệu chung về tác giả tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác:
– Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả bị ảnh hưởng đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thiên về đạo đức gia đình, người quân tử. Sau khi thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác nhiều tác phẩm thể hiện tư tưởng gần gũi với đời sống thanh tịnh
– Bài thơ Câu cá mùa thu
Thân bài:
* Hai câu đề
– Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa cân đối của “ao thu”, “chiếc thuyền câu” bé xíu;
+ Màu sắc “trong veo “: vẻ dịu êm, thanh sơ của mùa thu
+ Hình ảnh: Chiếc thuyền câu bé tẻo teo ⇒ khá nhỏ
+ Cách phát âm “eo “: giàu sức biểu đạt. ..
*Hai câu thực
–Tiếp tục nét vẽ về mùa thu qua hình ảnh:
+ Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả cảm xúc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và tinh khiết, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh
+ Lá vàng trước gió: Hình ảnh mang màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam
– Sự chuyển động:
+ “ hơi gợn tí” ⇒ chuyển động cũng nhẹ nhàng ⇒ sự chú ý quan sát của con người
+ “khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động cũng nhẹ nhàng rất khẽ ⇒ sự quan sát sâu sắc và tinh tế
*2 câu luận
Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng sâu lắng và đượm buồn:
+ Không gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và độ sâu
+ Tầng mây lơ lửng: gợi cảm giác dịu mát, thân quen gần gũi, bình yên, tĩnh lặng.
+ Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu vẫn được phép dùng, tuy nhiên không phải là màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ hay xanh thuần một màu trên diện rộng mang đặc trưng của mùa thu.
*2 câu kết
Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong tiết thu yên tĩnh với tư thế “Tựa gối buông cần “:
+ “Buông “: Thả mình (thả lỏng) đi câu để thư giãn, ngắm cảnh mùa th
+ “Lâu chẳng được “: Không câu được cá
⇒ Đằng sau đó là tư thế thảnh thơi thong dong ngắm cảnh thu, coi câu cá như một thú vui làm thư thái tâm hồn
⇒ vẻ hài hoà với thiên nhiên của nhà thơ
– Toàn bài thơ mang vẻ thư thái khi câu cuối cùng mới có tiếng động:
+ Tiếng cá “cá động dưới chân bèo” → sự chăm chú quan sát của tác giả trong không khí yên tĩnh của trời thu, thơ “lấy động tả tĩnh”.
Kết bài:
– Tổng kết lại nội dung và nghệ thuật của bài thơ
– Ý nghĩa và giá trị tác phẩm để lại
– Nêu cảm nhận của người viết về tác phẩm
2. Phân tích bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến:
Trong lịch sử thơ ca cũng có một vài bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu thanh, Thu khê và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đều cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài “Thu điếu” thì nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là “đại diện hơn tất cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh sông tình sâu sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu đất nước, yêu mùa thu và gắn liền với tình yêu quê hương đôi lứa. “Thu điếu” được viết với thể thơ của Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh rất biểu cảm. Cảnh thu, cây thu thơ mộng của làng quê Việt Nam đã hiện lên trong hình hài và màu sắc hoàn hảo dưới ngọn bút tinh tế của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu nói về ao thu cùng chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu đã bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong xanh Dòng khí thu tinh khiết bỗng trở nên “lạnh lẽo”. Trên mặt nước hiện lên xa xa một chiếc thuyền câu khá bé nhỏ – “bé tẻo teo”. Cái ao cùng chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh giản dị, thân thương, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho thấy vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có chỗ nào là ao, cứ ao to ao sâu, ao rộng chiếc thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo “:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo“.
Các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” gợi tả bố cục, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; nhịp điệu lời thơ như gió thu đưa tiếng thu trở về.
Hai câu thơ cuối cùng trong phần này là những nét vẽ tài hoạ tô đậm hơn vẻ đẹp của mùa thu:
Màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” của lá tạo lên bức tranh đồng quê mộc mạc mà rực rỡ. Nghệ thuật đối trong tranh thật cũng điêu luyện kết hợp “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương đương với mức độ “tí” của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi từ “vèo” trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình mãi mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Đón thu, tiễn thu”, “Ngồi nhìn lá rơi đầy sân”.
Hai câu luận mở rộng không gian diễn tả. Bức tranh thu có thêm độ cao của bầu trời “xanh ngắt” với nhiều tầng mây “lơ lửng” xuôi theo chiều gió thổi. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt “:
– “Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao
(Thu ngâm)
– “Da trời ai nhuộm mà xanh biếc”.
(Thu ẩm)
– “Tầng mây lơ lửng trời xanh biếc”.
(Thu tàn)
Cái hay của bài thơ “Thu điếu” là ở hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo “.
“Tựa gối ôm cần” là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã rời vòng danh lợi. Cái tiếng “cá đâu đớp động”, những chữ “đâu” gợi nên cảm giác mơ hồ, mông lung và chợt thức. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng lực bất tòng tâm với thời cuộc, không muốn trở thành tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh và từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh bạch bỏ quê đi ở trọ. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ đang chìm đắm trong giấc mộng mùa thu thì bỗng bừng tỉnh quay trở lại thực tại khi “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên cảnh vật ao thu, hồ thu êm đềm, tĩnh lặng như chính tâm trạng của nhà thơ vậy — buồn cô đơn và trống trải.
Âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi bật không gian tĩnh lặng của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với lòng người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm tư và tìm kiếm sự an ủi ở thiên nhiên, ở sắc “vàng” của nắng thu, ở màu “xanh ngắt” của lá thu, ở những “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”. ..
Câu cá mùa thu là một trong số những áng văn hay và mang đậm nét trữ tình và cảm xúc của Nguyễn Khuyến. Mùa thu ngâm câu thơ thưởng vị trà thì còn gì bình yên bằng. Qua những câu thơ trên, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tinh, Nguyễn Khuyến đã khắc họa cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương đất nước tha thiết và đằm thắm.
3. Phân tích bài thơ Thu điếu chọn lọc hay nhất:
Đi câu là một cái thú thanh tao của những bậc đế vương. Có bậc quân tử có tài, không việc gì đi câu để đợi thời. Ngồi trên bờ ai chẳng nghĩ đến chuyện đời, nhớ về thế giới thần tiên. “Cá con mồi vuốt râu ngồi bờ” (có người lại sử dụng lưỡi câu nhọn kiểu Khương Tử Nha – Trung Quốc) . Có bậc quân tử cầm kiếm đi câu cho hương thú thanh tịnh, hoà mình với thiên nhiên và suy nghĩ trong trạng thái thoải mái. Nguyễn Khuyến đi câu theo cách tương tự. Ông đã mở tất cả các giác quan để thưởng thức mùa thu và cũng là mùa câu của xứ Bắc. Như những đứa trẻ con trong xóm, ông câu lúc nào cũng chăm chú, cũng hồi hộp và cũng say sưa. Kết quả của cuộc chơi ấy là ông đã có một bài thơ “Thu điếu” thuộc loại tuyệt tác của nền vãn học Việt Nam:
Hình ảnh mùa thu hiện lên trong trang thơ với một không gian hẹp ở nơi làng quê của ông, trong một cái ao nhỏ với con thuyền câu dài xíu:
Cái tôi trữ tình lặn phía sau ngòi bút. Cảm giác của nhà thơ lại hiện lên dịu dàng và sâu lắng. Mùa thu đã vào chiều muộn, “ao thu lạnh lẽo” với mặt nước “trong veo” không cần ngắm, ao thu chính là tấm gương sáng của làng quê. Làng Bùi của nhà thơ là đồng có rất nhiều ao to ao bé. Ao nhỏ thì thuyền câu cũng nhỏ theo “bé tẻo teo”, vần eo là thử vận khó, thế mà câu thơ trôi chảy tự nhiên như không, như không có chút gì là kỹ thuật cả.
Cách dùng câu hỏi “cá đâu” không chỉ gợi nên sự tò mò của nhà thơ mà còn gợi ra sự bối rối và hoang mang của lòng người. Dù đắm chìm trong dòng suy nghĩ nhưng nhà thơ lại cực kỳ tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện âm thanh mơ hồ xung quanh. Bởi tiếng cá đớp mồi rất khẽ, rất êm nên phải thật sự nhạy cảm và tĩnh lặng trong tâm hồn thì nhà thơ mới có thể lắng nghe được. Nghệ thuật dùng động tả tĩnh để tả sự vô tình được thể hiện trong hai câu thơ cuối. Cái động của con cá “đớp động” không “phá tan” đi cái tĩnh mịch của không gian mà ngược lại với những chuyển động ấy càng tô sâu hơn sự vắng lặng của không gian và nỗi cô đơn, trống trải trong tâm hồn con người.
Hai câu thơ cuối gợi nên hình tượng nhân vật trong nghề câu cá. Thế nhưng dường như nhà thơ không tập trung vào đi câu mà làm một cái cỡ để mang lại cảm giác thanh thản trong tâm hồn. Nhà thơ thả hồn vào thiên nhiên để tìm thấy được vẻ đẹp tinh tế của cảnh vật mùa thu cả trong đường nét, âm thanh và hình ảnh. Cảnh thu đẹp nhưng u buồn, lòng người thư thái nhưng vẫn ẩn chứa những ưu tư, những trăn trở về thân phận, cuộc sống.