Đồng chí là tập thơ xuất sắc nhất của Chính Hữu kể chuyện người nông dân khoác áo lính trong những năm đầu cuộc chiến tranh với thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được sáng tác vào khoảng đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu đến bạn đọc mẫu bài văn cảm nhận bài thơ Đồng chí chọn lọc hay nhất.
Mục lục bài viết
1. Hướng dẫn lập dàn í cảm nhận bài thơ Đồng Chí:
Mở bài:
Nêu đôi nét về tác giả Chính Hữu và bài thơ Đồng chí.
Thân bài:
Cơ sở hình thành tình đồng chí của người lính
Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự trùng hợp trong hoàn cảnh xuất thân
– Ngay ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thân thiết, gắn bó của anh và em – của những người lính cách mạng:
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất đắp trên sỏi đá”
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm sự trong lời dẫn chuyện
– Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, bình dị
– Cùng chung mục đích và lí tưởng chiến đấu: từ, hình ảnh này mang ý nghĩa biểu tượng => Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu. Theo tiếng gọi vinh quang của Tổ quốc việt nam, những anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để hoàn thành nhiệm vụ cao cả của thời đại.
Cùng chia sẻ mọi gian lao, vất vả
– Mối tính tri kỉ của những người bạn đã được biểu hiện qua một hìn ảnh cụ thể, gần gũi và gợi cảm: “Đêm rét chung chăn nên đôi tri kỉ”.
– Dòng thơ thứ bảy trong bài thơ “Đồng chí” là một điểm nhấn, một nét độc đáo dưới ngòi bút của Chính Hữu:
+ Dòng thơ được viết hoàn toàn riêng, là một câu đặc biệt có cả hai âm tiết đi cùng dấu chấm than, ngân nga với tiếng kêu da diết, tạo một nút thắt và lắng xuống.
+ Hai tiếng “Đống chí” rất bình dị, đẹp đẽ, là điểm nhấn và là nơi hội tụ biết bao tình cảm đẹp: tình giai cấp, tình bạn, tình người trong chiến tranh. Biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí
Tình đồng chí của người lính Cách mạng được biểu hiện bằng sự hiểu thấu tâm tư, nỗi lòng của nhau:
– Các anh là những người lính gác tình riêng tư, ra đi theo nghĩa cao cả, bỏ lại sau lưng khoảng trời quê hương với biết bao trăn trở, day dứt.
– Hai chữ “mặc kệ” => Thái độ dứt khoát của người ra đi khi lí tưởng đã rõ và mục đích đã chọn là “Anh trai làng quyết tâm đi đánh giặc lập công”.
– Là đồng chí của nhau, họ cùng san sẻ bao gian lao, khó khăn của cuộc đời quân ngũ
– Hình ảnh “Nắm lấy bàn tay” có sức gợi lớn hơn so với nhịp thơ chảy chậm. Đây là cách bày tỏ tình cảm của lính. “Tay nắm lấy bàn tay” sẽ trao vào nhau hơi ấm của tình đồng đội, tiếp cho nhau sức mạnh của tình đồng chí. Cái nắm tay đó sẽ là lời hứa chiến thắng.
Biểu tượng của tình đồng chí
– Tình đồng đội trong bài “Đồng chí” được Chính Hữu khắc hoạ rất đẹp ở những câu thơ cuối bài hát
– Đây là bức tranh đẹp ca ngợi tình đồng chí và là biểu tượng cao quý của cuộc đời người chiến sĩ.
– Rừng hoang sương muối: gợi cái tàn khốc và khắc nghiệt của thiên nhiên, của chiến tranh.
– “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh rất thật và cũng vô cùng ấn tượng:
+ “Súng” và “trăng” – hai hình ảnh tưởng chừng hoàn toàn đối nghịch nhưng đã được hoà trộn – là mạnh mẽ và dịu nhẹ – là gần và xa – là thực tại và lãng mạn – là chất chiến đấu và chất trữ tình – là chiến sĩ và thi sĩ.
Hiếm có một hình tượng thơ vừa đẹp lại vừa mang nhiều ý nghĩa như thế “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu.
+ Đây là một phát hiện, một sáng tạo bất ngờ về vẻ đẹp giản dị và cao quý của tâm hồn người chiến sĩ. Hình tượng đã góp phần nâng cao giá trị bài thơ và làm nhan đề cho toàn bộ tập thơ “Đầu súng trăng treo”.
Kết bài:
Khẳng định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật trong đó nếu nhận thức của người viết đối với tác phẩm và tác giả
2. Cảm nhận bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu:
Lịch sử nước việt nam đã đi qua bao lần biến cố. Mỗi lần biến cố là mỗi lần dân mình xích gần với nhau lại, giúp nhau vì mục đích cao đẹp chung. Đó là những năm tháng oai hùng, khí thế của dân tộc việt nam trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp và chống Mĩ vĩ đại. Giữa bao đau thương chiến đấu, cuộc chiến đã góp phần đắp xây dựng lên mối quan hệ của những người lính với nhau. Cũng không có gì khó hiểu khi đến năm 1948, tác phẩm “Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu đã gây ra một sự chấn động và lan toả rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội sống chết có nhau, hy sinh có nhau của bao anh bộ đội Cụ Hồ và những người nông dân cả nước đi bộ đội diệt giặc trong nhữg năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Mới bài thơ đã khơi lên sự xúc động mãnh mẽ trong lòng các thế hệ.
Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất nhân văn, tình nghĩa gần gũi mà bình dị cũng với tình đồng chí, đồng đội thân thương cao đẹp của bao người lính nông dân áo vải. Từ moi miền quê trên mảnh đất quê hương, bao con người bình dị đã đứng dậy theo tiếng gọi của Tổ Quốc và về sinh hoạt chung với nhau để làm nên một con người mới: Người Lính. Họ là những người nông dân từ nhiều vùng quê khốn khó nghèo đói, quanh năm chẳng màng lấy con trâu miếng ruộng, các anh rời quê hương lên đừơng chiến đấu:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng anh nghèo đất cày trên sỏi đá
Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” đã thành “đôi tri kỉ” và về sau thành “đồng chí”. Câu thơ biến hoá 7,8 từ rồi co lên, rút xuống 2 từ cảm xúc vần thơ cứ dồn lại và thắt chặt hơn. Nhớ ngày đầu đứng dưới cây quân kì: “Anh với em đôi người xa lạ-Tự phương trời không hen gặp nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau qua nhiều kỉ niệm vui:
“Súng bên súng đầu kề bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau vất vả, hiểm nguy, đêm đắp chung một chiếc chăn chống giá rét. Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình yêu thương, ấm áp gia đình. Vì cái chung đã biến những con người xa lạ ấy trở thành đôi tri kỉ. Sự đồng cảnh, cảm thông và hiểu nhau là cơ sở, là yếu tố gốc của nên tình bạn, tình đồng chí.
Tấm lòng của họ với đất nước càng càm động khi giặc về nhiều anh đã bỏ quên người bạn thân thiết miếng ruộng chưa cày, hay mấy ngôi nhà vì gió thổi lung lay mà ra đi kháng chiến. Bình thường thế đấy, vì nếu không có một tình yêu đất nước sâu nặng làm sao có một thái độ ra đi đúng đắn.
“Ruộng nương anh gửi bạn em cày
Gian nhà không, mặc gió lung lay “
Họ đứng dậy chiến đấu cũng vì một lẽ giản dị: yêu nuớc Tình yêu đất nước và ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời con người, bởi thế, nông dân hay trí thức khi mới thấy tiếng gọi của quê hương thì họ sẽ để lại hết tất cả từ ruộng nương đến xóm làng. Nhưng rồi khi ở nơi kháng chiến người lính nông dân áo vải bỗng trở mình, lòng đầy băn khoăn lo cho thửa ruộng không cày, với ngôi nhà bị gió lung lay. Nỗi đau của các anh là như thế: giản dị nhưng xúc động vô cùng. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, ngừơi vợ trẻ và đàn con thơ đang đợi anh quay trở lại:
“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính.”
Trong mỗi tâm hồn ấy, dù sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường ngày, song thực chất hành động đó là cả một sự hi sinh lớn lao. Về cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay đã ra đi cũng như rời xa đi một nửa cuộc đời này.
Cảm nhận về tập thơ “Đồng chí”, có thể nói Chính Hữu đã thổi một luồng gió nhẹ nhàng cho tình đồng chí, đồng đội giữa thời kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao. Với sự pha trộn của bút pháp hiện thực và trữ tình, ngôn ngữ giản dị, gần gũi, sử dụng chất liệu dân gian đã khiến cho từng lời thơ trở nên thi vị, sâu lắng. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong lời thơ của Chính Hữu đã sáng ngời vẻ đẹp của một tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
3. Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí hay nhất:
Văn chương giống như một cây bút nhiều màu, nó vẽ nên bức tranh cuộc sống với các gam màu hiện thực. Văn chương không hề tìm đến các chốn cao sang lộng lẫy để làm mãn nhãn người đọc, nó khám phá hiện thực và đón nhận thứ tình cảm chân thành không dối trá. Người nghệ sĩ đã dùng tất cả trái tim mình nhằm kéo bạn đọc về với đời thật để cùng thấu hiểu và cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã đưa bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới luôn ấm áp tình đồng chí đồng đội qua giọng văn giản dị, mộc mạc.
Khi nói đến Chính Hữu người ta hay nhắc về một nhà thơ chiến sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông chủ yếu viết về chiến tranh và hình ảnh người lính với nhiều ngôn từ mộc mạc, giản dị. Bài thơ “Đồng chí” là một trong các bài thơ nổi tiếng và thành công nhất của ông. Bài thơ được viết và đăng lần đầu trên một tờ báo đại đội ở chiến khu
Với lối câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, bài thơ thể hiện ấn tượng hình ảnh người lính thời kì đầu chống Pháp và tình đồng chí đồng đội thắm thiết, bền chặt của các anh.
Ngòi bút tinh tế của chính hữu cùng với các câu thơ tự do, giọng thủ thỉ tâm tình và ngôn ngữ giản dị, hết sức mộc mạc Chính hữu đã dần dần dẫn người đọc về với cơ sở hình thành tình đồng chí:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày sỏi đá “
Hai câu đầu với cấu trúc câu thơ song song, thành ngữ dân gian “nước mặn đồng chua” và cách nói vay mượn từ tục ngữ “đất cày trên sỏi đá” cùng giọng thơ thủ thỉ tâm tình gợi cảnh hai người lính đang say sưa kể cho nhau nghe chuyện quê hương mình. Đó là những vùng quê nghèo và lam lũ: một người ở miền biển “nước mặn đồng chua”, một người ở miền trung du “đất cày trên sỏi đá”. Phải chăng từ nguồn gốc quê quán của mỗi anh đã làm nên bệ phóng cho tình đồng chí?
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời không hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Đồng hoàn cảnh, chung lý tưởng đánh giặc giữ nước, nhiều ạnh đã tham gia đội ngũ bộ đội kháng chiến. Cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì của dân tộc việt nam là nơi gặp gỡ trái tim bao người con yêu nước, đã khiến nhiều anh từ lạ thành quen “anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời không hẹn quen nhau”
Có lẽ chung cuộc sống chiến đấu vất vả bên chiến hào bảo vệ độc lập tự do của dân tộc nên đã không khi mô các anh thành tri kỉ của nhau:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ “
Hai câu thơ vừa mang ý nghĩa hiện thực lại mang ý nghĩa biểu trưng. Câu thơ: “súng bên súng, đầu sát bên đầu” đã gợi nên tư thế của người lính giữa đêm phục kích. Họ luôn sát cánh bên nhau vượt qua khó khăn, nguy hiểm. “Súng bên súng” là chung nhiệm vụ, chung mục tiêu và “đầu sát bên đầu” là chung chí hướng, chung lí tưởng. Chính Hữu đã dung những từ “sát, bên, chung” gợi sự chia sẻ của người lính như ý hoà tâm giao. Hình ảnh “đêm rét chung chăn” là một hình ảnh đẹp và đầy ý nghĩa, đã giúp ta thấy rõ sự sẻ chia bao thiếu thốn gian lao của cuộc đời người lính. Cũng những sẻ chia đó, Tố Hữu đã viết:
“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Tấm chăn dù mỏng nhưng ấm áp tình đồng chí, đồng đội khiến người lính không thể lãng quên. Nó đã vun đắp nên tình đồng chí của bọn anh và cái tình đó ngày một thắm thiết, càng khắc sâu. Các anh giờ đây không chỉ là tri kỉ than thiết của nhau mà còn có thể thành những người “đồng chí”.
“Đồng chí!” Là một câu đặc biệt với một bản lề khép chặt để khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở rộng ra thể hiện sức mạnh của tình đồng chí. Nó như nốt trầm trên phím đàn, khiến người đọc phải ngừng lại suy ngẫm những ý nghĩa do nó gợi ra. Đó là tiếng kêu tha thiết của tình người có chung chí hướng lí tưởng cất lên từ trong sâu tâm hồn người lính. Tình đồng chí là đỉnh cao của tình bạn và tình người, là kết tinh của tất cả tình cảm, là cội nguồn sức mạnh giúp người lính bước qua bao tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “đồng chí” đơn sơ mà xúc động đến nhói lòng đã làm bật lên ý nghĩa của từng đoạn thơ và lời thơ.
Mười câu thơ cuối cùng đều là các câu thơ tự do, ngôn từ giản dị, mộc mạc giúp người đọc thấy rõ ý nghĩa và sức mạnh của tình đồng chí.
Trải qua bao khó khăn gian khổ nơi chiến trường, tình đồng chí đã cho các anh có thêm những kinh nghiệm và hiểu nỗi lòng, tình cảm của nhau. Nhiều lúc ngồi sát bên nhau, các anh đã kể cho nhau những chuyện quê nhà đầy bồi hồi, xúc động:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Ba câu thơ với giọng thủ thỉ tâm tình cùng các hình ảnh giản dị quen thuộc cho thấy những người lính vốn dĩ là những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, gắn với ngôi nhà mảnh ruộng. Nhưng khi tổ quốc cần, nhiều anh sẵn sàng bỏ những thứ gần gũi nhất mà ra đi làm nhiệm vụ: ruộng nương cho bạn mình cày, để lại ngôi nhà trống vắng đang chờ người thay mái “mặc kệ” vốn là thái dộ dửng dưng vô cảm của con người, nhưng trong lời thơ của Chính Hữu đã thể hiện rõ tinh thần quyết tâm của người lính khi ra đi. Đa anh ra đi mang theo tình yêu quê hương trrong tim em, được nhân lên bằng tình yêu Tổ quốc. Đó cũng là niềm quyết tâm chung của cả dân tộc và của toàn thời đại. Tuy quyết tâm ra đi nhưng trong sâu thẳm tâm hồn mỗi anh, hình ảnh quê hương luôn khắc đậm nét và vẫn gợi nên mối nhớ thiêng liêng: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh này cũng với nghệ thuật nhân hoá của Chính Hữu đã tạo ra mối nhớ hai chiều: quê hương – nơi có cha mẹ, dân làng đang nhớ và chờ đợi các anh, các anh là những người lính luôn hướng đến quê hương với bao tình cảm sâu đậm. Có lẽ những nỗi nhớ đó đã tiếp thêm vào các anh sức mạnh để các anh chiến đấu giành lấy độc lập cho dân tộc.
Không chỉ thấu hiểu, đồng cảm, nhiều anh đã sẻ chia sự thiếu thốn, gian lao cùng niềm hạnh phúc bên chiến hào chiến đấu:
Đoạn thơ với bút pháp hiện thực, hình ảnh ghép cặp “anh – tôi” và “áo anh – quần em” tạo nên sự gắn bó của những người đồng chí luôn sát cánh, sống chết bên nhau. Trong thiếu thốn, các anh đã cùng chia sẻ đau ốm bệnh tật, cũng trải qua bao cơn sốt rét rừng khủng khiếp, cùng chia sẻ những thiếu thốn về vật chất, với tinh thần đồng đội “miệng cười buốt giá”, bằng tình yêu thương gắn kết “trao nhau tay cầm lấy bàn tay”. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” gợi niềm cười tươi ngời sáng giữa giá lạnh xua đi cái khốc liệt của chiến trường. Các anh nắm tay nhau như truyền vào nhau hơi ấm, cùng dìu nhau bước lên khó khăn thử thách. Thật hiếm khi thấy cái ôm nào nồng ấm như thế!
Với đôi nét vẻ giản dị mộc mạc đã vẽ nên bức tranh thật đẹp ngay giữa một hoàn cảnh đầy khắc nghiệt: bức tranh người lính đứng canh gác giữa núi rừng biên giới lúc đêm khuya:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo. “
Đêm nay cũng như bao nhiêu đêm trước, các anh phục kích chờ giặc, sẵn sàng tham gia trận đánh quyết định thắng lợi cuối của chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, một đêm đã đi vào lịch sử khiến người lính không thể phai mờ. Các anh phục kích chủ động chờ giặc giữa hoàn cảnh đầy khốc liệt của “rừng hoang sương muối”
“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Các anh chờ giặc tới là chờ giây phút hồi hộp căng thẳng khi ranh giới của mạng sống và chết vô cùng mong manh. Từ “chờ” đã thể hiện rõ tư thế cảnh giác của người lính trong đêm phục kích cũng là tư thế chung của toàn dân ta sau chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khép cuối đoạn thơ là hình ảnh thật đẹp đầy lãng mạn như một phát hiện của người lính về cái đêm phục kích của anh trên “đầu súng trăng treo”. Câu thơ gợi từ hiện thực: đêm rất khuya, người lính đứng canh gác trong tư thế chủ động, súng hướng lên trời và trăng lên cao, ánh trăng trên đầu súng khiến cho anh ngỡ rằng trăng đang ở trên đầu súng của mình. Súng là biểu tương của cuộc chiến đấu đầy gián khổ và hy sinh mà người lính đang trải qua, trăng là biểu tượng của cuộc sống hoà bình trong tương lai mà người lính đang hướng tới. Súng là biểu tượng của người chiến sĩ và trăng là biểu tượng của thi sĩ. Súng – trăng là gần và xa, thực tại và mơ, chất chiến đấu và chất trữ tình, chất chiến sĩ và chất thi sĩ, hiện thực và huyền ảo cũng tồn tại, góp phần tô thêm vẻ đẹp cuộc đời người chiến sĩ. Ánh trăng như đang ngập tràn khắp núi rừng chiến khu, trên bầu trời và ngay chính trong màn sương mờ ảo. Tâm hồn của anh và bao người chiến sĩ cũng như vầng trăng đó ấm áp, lung linh ánh sáng hy vọng để cùng hướng tới một ngày mai tươi sáng.
Như vậy, “Đồng chí” giống như một lời hát ngọt ngào ấm áp của tình đồng chí đồng đội. Chính Hữu đã mang đến cho thơ ca cách mạng một giai điệu mới mẻ và một bức tranh đẹp của người lính chống Pháp. Nhà thơ đã khéo léo vận dụng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên của các tục ngữ, thành ngữ dân gian làm những lời thơ trở nên gần gũi, mộc mạc và đi trực tiếp vào trái tim người đọc. Bên cạnh đó với các hình ảnh tượng trưng và nhiều câu văn giản dị cùng ngòi bút hiện thực lãng mạn của ông đã tô điểm cho vẻ đẹp lung linh của tình đồng chí.
4. Cảm nhận bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu được điểm cao:
Có một đề tài người lính trong suốt văn học Việt Nam thời kì kháng chiến, có một bìa thơ còn vang mãi tiếng đồng đội thân thuộc. Bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu đến với người xem rất gần gũi mà sâu sắc, gợi cho họ dư âm mạnh mẽ về hình ảnh các anh lính thời kì chống Pháp với một tinh thần đầy nhiệt huyết dành độc lập cho quê nhà. Đặc biệt 13 câu thơ cuối bài đã gây ấn tượng mạnh mẽ với người xem bởi tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng và gắn bó sâu nặng của người lính.
“Đồng chí” là tập thơ xuất sắc nhất của Chính Hữu viết cho người nông dân khoác áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào khoảng đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi suốt một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc thăng hoa, hình tượng thơ toả sáng, bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sống chết có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ và bao người nông dân cả nước theo bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954) .
Hai câu thơ đầu cấu trúc song song, đã làm nổi nên hai “gương mặt” người chiến sĩ còn sống, như thể đang tâm tình cùng nhau. Quê hương anh và làng em cùng nghèo, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày thành sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ khi nói đến làng quê, nơi hậu phương thân thương của tổ quốc, Chính Hữu đã làm nên lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc và dễ hiểu như tâm hồn người trai cày xông trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, cảm thông và thấu hiểu nhau là cơ sở, là yếu tố gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ kế tiếp nói nên một quá trình khác: từ “đôi người xa lạ” chuyển “thành đôi tri kỉ”, rồi sau đó thành “đồng chí”. Câu thơ biến hoá, 7, 8 từ sau thu lại rồi giảm còn 2 từ, cảm xúc vần thơ được cô đọng thêm và thắt chặt hơn. Những ngày đầu đứng dưới cây quân kì: “Anh với em đôi người xa lạ – Tự phương trời không hẹn gặp nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bởi những kỉ niệm đẹp. Đã “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân thiết, biết bạn như thể biết ta. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút gọn thành hai từ “đồng chí” làm diễn đạt sự vui mừng cảm động vang vọng sâu trong lòng. Xúc động khi nhớ đến một tình bạn đẹp. Tự hào vì mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng và cùng chung lí tưởng chiến đấu của bao người binh nhì từng là các trai cày với lòng yêu nước xông trận đánh giặc.
Bảy câu thơ cuối cùng ngồn ngộn các chi tiết có thật của hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân việt nam đã quật khởi đứng dậy lấy lại non sông. Chỉ với gậy tầm vông, với giáo mác, . .. nhân dân ta phải chống lại xe tăng và đại bác của giặc Pháp xâm lăng. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân việt nam trải qua vô vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, đói lương thực, thuốc men. … Người lính ra trận “áo vải chân không đi tìm giặc lửa”, áo quần rách nát tơi tả, đau ốm bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán đẫm mồ hôi”
Chữ “biết” trong bài thơ mang nghĩa là chia sẻ và cùng nhau vượt gian nan hoạn nạn. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh. .. quần em” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự đoàn kết, gắn bó của tình đồng chí thắm thiết cao vời. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc đối lập: “Miệng cười buốt giá” thể hiện mạnh mẽ tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức văn xuôi, cảm xúc từ kìm nén chợt bật dậy: “Yêu nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được thể hiện qua cử chỉ thân mật, âu yếm: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay em, tôi nắm vào bàn tay anh, cùng ôm nhau, trao cho nhau tình thương và sức mạnh, sẽ bước qua tất cả thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông rất lạnh lẽo hoang vắng giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ khốc liệt và trong khi “chờ giặc tới”, hai chiến sĩ luôn “đứng cạnh bên nhau”, sống chết có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu và một tứ thơ đẹp bất ngờ ra đời:
“Đầu súng trăng treo”.
Người chiến sĩ trên đường ra trận với “ngọn sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi đánh giặc trong một đêm đông “rừng hoang sương muối” lại có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mơ, đêm khuya trăng mờ, trăng trôi nổi trên không như thể đang mắc vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng về vẻ đẹp đất nước yên bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hy sinh. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên cuộc chiến đấu gian khổ của anh bộ đội luôn lạc quan, tình đồng chí thêm khăng khít gắn bó, họ cùng mong ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp trữ tình của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu chọn đặt làm tên cho tập thơ – Đoá hoa đầu mùa của anh. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tan trong màn sương mù mờ ảo. Mượn trăng để diễn tả sự căng thẳng của chiến trường, nhằm tạo thêm cái tư thế sẵn sàng “chờ giặc tới”. Áng gian nan vất vả của trận đánh sẽ diễn ra đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng của ánh trăng, và phải chăng đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp mộc mạc, bình dị khi nói tới đời sống vật chất của người chiến sĩ, cũng lại mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng và thơ mộng khi nói đến đời sống tâm hồn, mối tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, gần gũi với tiếng nói của người lính đang tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu sử dụng một cách khéo léo, tạo ra chất thơ giản dị, mộc mạc và gần gũi. Sự pha trộn giữa bút pháp hiện thực cùng màu sắc trữ tình chung đúc thành hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng chí” là tập thơ khá đặc biệt viết cho anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân khoác áo lính và các anh hùng áo vải của thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, gần gũi và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
5. Cảm nhận bài thơ Đồng Chí của Chính Hữu ngắn gọn:
Chính Hữu tên thật là Trần Đình Đắc, ông gia nhập quân đội năm 1947 và tiếp tục làm thơ, Chính Hữu sáng tác không dài song có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền thơ hiện đại Việt Nam, điển hình là bài thơ “Đồng chí” ra đời năm 1948 ngay khi Chính Hữu cùng đồng đội vừa mới trải qua chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947. Bài thơ đã đề cập tới một thứ tình cảm mới mẻ và thiêng liêng của bao người lính, anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đó là tình đồng chí.
Bài thơ gồm hai mươi dòng thơ với ngôn ngữ giản dị giọng điệu thủ thỉ tâm sự cảm xúc kìm nén, “Đồng chí” ngợi ca tình đồng chí gian khổ có nhau, hy sinh có nhau của người lính anh bộ đội cụ Hồ và bao người nông dân cả nước tham gia đánh giặc trong những năm đầu gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Đến với bảy câu thơ đầu tác giả giải thích rõ cơ sở nảy sinh tình đồng chí, trước hết tình đồng chí khởi nguồn sâu sắc từ sự tương đồng của cảnh ngô xuất thân nghèo.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá “
Hai câu thơ có cấu trúc sóng đôi với nhau thay lời tâm sự, chia sẻ về quê hương anh bộ đội. Quê hương anh và làng tôi vốn nghèo là nơi “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, dùng tục ngữ, thành ngữ khi nói đến làng quê nơi hậu phương thân thương của mình, Chính Hữu đã làm nên lời thơ giản dị chất thơ mộc mạc dễ yêu trong tâm hồn người trai cày đánh giặc.
Chung cảnh ngộ xuất thân bao người lính cùng chung lý tưởng đấu tranh vì độc lập chủ quyền của Tổ Quốc:
Chính điều ấy đã khiến họ từ đôi người lạ lẫm trở nne thân thiết với nhau rồi đứng trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
“Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời không hẹn gặp nhau”
Cái tình đồng chí được nuôi dưỡng rồi kết lại sâu sắc trong những cảm thông và chia sẻ gian lao cũng chính là hạnh phúc của cuộc đời người lính.
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Giữa những đêm trường gió rét, những người lính cùng đắp chung chăn vẫn có thể chia sẻ cùng nhau lỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, chính vì thế từ những người bạn họ đã thành tri kỉ.
Sau sáu câu thơ đầu tác giả hạ một dòng đặc biệt: “Đồng chí!” chỉ có 2 chữ và một dấu chấm than nhưng ý nghĩa rất hàm xúc, nó tạo nên một nốt trầm, nó cất lên thành một tiếng kêu thiết tha, xúc động từ đáy lòng, đây là tình cảm được thăng hoa trên tất cả cảm xúc, là đỉnh cao của tình bạn, tình người, xuất phát từ thứ tình cảm đầy tính truyền thống, đồng thời cũng là điểm kết của bài thơ.
Mười hai câu thơ cuối cùng là những biểu hiện xúc động của tình đồng chí và sức mạnh của tình cảm đó ở người lính, tình đồng chí trước hết là sự thấu hiểu sâu sa tâm tư nỗi lòng của nhau:
“Ruộng lương anh gửi bạn thân cày
Căn nhà không mặc kệ gió lung lay “
Khi tấm chăn chung gấp lên, có biết bao nhiêu tâm sự của người lính được viết ra, họ nói cho nhau về chuyện ruộng lương, nhà cửa, người thân. .. đó là những hình ảnh rất gắn bó với đời lính. Đằng sau thái độ cương quyết ra đi của nhiều người lính luôn gắn bó với quê hương:
“Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính
Giếng nước, gốc đa là hình ảnh ẩn dụ cho những người ở hậu phương, là người mẹ già, người vợ, con thơ đang ngóng theo, đang nhớ về người trai cày ra mặt trận, cũng có thể nói đây là mối nhớ của người lính đang ôm hình bóng quê hương, nên cái gì bình dị gần gũi nhất là những thứ dễ dàng gây nhớ và yêu nhất.
Những dòng thơ tiếp đã thể hiện tình đồng chí một cách sâu sắc, đồng chí chính là cùng nhau chia sẻ bao khó khăn gian khổ của cuộc đời người lính:
“Anh với tôi biết những cơn ớn này
Rét run người vầng trán đẫm mồ hôi”
Đến lượt tác giả đưa vào câu thơ của anh hàng loạt các chi tiết đời thường, đó là cái áo cũ, quần rách và đôi chân không giày, đó cũng là căn bệnh sốt rét rừng dai dẳng mà người lính đang gánh chịu. tất cả làm nổi bật không gian khó khăn của người lính. Đây cũng là những khó khăn chung của quân và dân việt nam trong thời kì dầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tuy nhiên điều quan trọng nhất Chính Hữu muốn nói ở đây không phải là nỗi đau mà lại là cách thấu hiểu nhau về sự khổ. Những câu thơ có cấu trúc đan xen, khác nhau, kết hợp với các từ “tôi” “anh” cùng lúc đã góp phần diễn đạt tinh thần chia sẻ và sự thấu hiểu nhau về mọi cảnh ngộ của người lính.
Khó khăn gian khổ thế nhưng họ luôn sáng ngời nụ cười tươi “miệng cười buốt giá” và xúc động nhất họ đã truyền đến nhau hơi ấm của tình thương “thương nhau. .. tay”, hình ảnh ôm vào bàn tay tuy đơn giản nhưng rất đẹp, nó vừa thể hiện tình cảm gắn bó sâu đậm của người lính, lại ngầm nói lên sức mạnh của tình cảm ấy, dường như chỉ với một cử chỉ “tay nắm bàn tay” mà người lính được tiếp thêm sức mạnh để vượt qua bao gian khổ.
Ba câu thơ cuối bài thơ là tấm tranh sinh động về tình đồng chí và là biểu tượng cao đẹp của cuộc đời người lính:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau đợi giặc tới
Đầu súng trăng treo “
Trong bức tranh, nổi bật trên nền cảnh rừng đêm sương muối giá rét là ba hình ảnh kết nối với nhau: người lính, nòng súng và ánh trăng. .. Ba hình ảnh trên đã tạo thành một bức tranh vừa hiện thực vừa lãng mạng, trước hết tính hiện thực được thể hiện ở không gian và tình huống cụ thể, thời gian: đêm khuya, không gian: rừng vắng sương muối, còn tình huống là hoàn cảnh những người lính đang đứng gác bên nhau đợi giặc về, tất cả cùng thể hiện sự tàn khốc của chiến tranh, không những phải chịu đựng cái lạnh thấu xương với hàng ngàn mũi kim trâm xuyên da, thịt mà cái chết cũng bầm dập bên mình vì có thể trong chốc lát nữa thôi quân thù sẽ khai hoả và biết đâu một trong số đó sẽ ngã xuống, chính tình đồng đội đã tạo lên sức mạnh giúp họ bước qua mọi khó khăn gian khổ.
Như vậy, bằng thể thơ lục bát với nhiều câu thơ dài ngắn khác nhau, ngôn ngữ súc tích, hình ảnh thơ giản luận, gần gũi và có ý nghĩa biểu tượng, bài thơ đồng chí của Chính Hữu đã thể hiện hết sức xúc động tình đồng chí đồng đội gắn bó sâu nặng của người lính anh bộ đội cụ hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, họ cũng là những con người ưu tú nhất, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng việt nam thời đại Hồ Chí Minh.