Văn tế bi tráng là một tác phẩm văn học rất quan trọng của văn học Việt Nam, và nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn học và lịch sử của đất nước. Chúng ta hãy tôn vinh những người anh hùng đã hy sinh cho quê hương của mình, và nhớ mãi tấm gương sáng của họ.
Mục lục bài viết
1. Dàn ý phân tích tinh thần nhân đạo
1.1. Mở đầu
Hình tượng người anh hùng nông dân xưa là nguồn cảm hứng cho nhiều tác giả văn học.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên tượng đài oai hùng cho người nông dân Việt Nam, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.
1.2. Nội dung
- Tinh thần nhân đạo thể hiện ở cách xây dựng hình tượng người nông dân anh hùng.
- Đức tính tốt đẹp, tư thế dũng cảm, hiên ngang cao đầu.
- Tấm lòng thủy chung của những người nông dân nghĩa sĩ đối với đất nước.
- Tinh thần nhân đạo thể hiện ở việc trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp của những nghĩa sĩ.
- Tình yêu quê hương, đất nước, nỗi căm hờn lũ giặc xâm lược đã trở thành hành động quyết liệt.
- Tính nhân văn được bộc lộ qua lí tưởng chiến đấu cao cả, tinh thần quật khởi của nhân dân khi đứng trước gian khổ.
- Niềm tin, hi vọng vào tương lai đã biến thành động lực, năng lượng vô hạn cho những người lính.
- Người nông dân vốn có cuộc sống bình dị nhưng khi đất nước gặp nguy nan, họ lại là những người xung phong đấu tranh quật cường với tinh thần đoàn kết cao nhất.
- Sự sẵn sàng hi sinh của những người chiến sĩ.
- Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong việc xây dựng hình tượng người chiến sĩ Cần Giuộc là một chủ đề cần nghị luận.
1.3. Kết bài
Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện qua hình tượng người nông dân anh hùng. Tính cách đạo đức tốt đẹp, lòng thủy chung, và sự sẵn sàng hi sinh của những người chiến sĩ đã truyền cảm hứng cho nhiều tác giả văn học và thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc trong văn hóa dân tộc.
2. Phân tích tinh thần nhân đạo hay nhất:
Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm văn học yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm này giới thiệu lần đầu tiên một nhân vật nông dân anh hùng yêu nước đến với văn học Việt Nam.
Tác phẩm này miêu tả những nỗ lực và hy sinh của người nông dân trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm. Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc được xây dựng với tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu. Câu chuyện vẫn còn quan trọng với lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tác giả miêu tả nhân vật Cần Giuộc với tư thế quả cảm, hiên ngang trước thất bại đau đớn. Tác phẩm thể hiện tình yêu nước của người nông dân thông qua vẻ đẹp hùng tráng của nhân vật anh dũng cứu nước. Mặc dù họ đã phải đánh đổi những mất mát đau đớn, nhưng họ vẫn tỏa sáng với vẻ đẹp hùng tráng, đậm chất sử thi.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại để vinh danh những nông dân anh hùng yêu nước chống Pháp. Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là một tác phẩm văn học lịch sử độc đáo trong văn chương Việt Nam.
Trong tác phẩm văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng, những người nông dân yêu nước. Họ có phẩm chất đáng ngưỡng mộ như hiền lành, cần cù, giản dị, chất phác và gắn bó với đất nước, yêu cuộc sống hòa bình và không muốn biết đến những chuyện liên quan đến súng gươm.
Người lao động cũng được ca ngợi về nghĩa khí của họ, trong thái độ căm thù quân giặc, họ không ngần ngại đối mặt với nguy hiểm để bảo vệ cho đất nước, cho đất tổ và thể hiện sự thất vọng, lo lắng khi triều đình không thể bảo vệ dân lành.
Người nông dân còn được ca ngợi về tinh thần tự nguyện tham gia chiến đấu, vì tình yêu đối với đất nước và lòng tự hào về dân tộc, họ đã từ những người nông dân hiền lành trở thành những chiến sĩ của đại nghĩa, tự nguyện gánh vác trách nhiệm và hy sinh để bảo vệ quê hương.
Bên cạnh đó, Nguyễn Đình Chiểu cũng ca ngợi mục đích, động lực chiến đấu của người nông dân, những người với ý chí kiên cường và đúng đạo lý của người Việt Nam. Họ chiến đấu để bảo vệ vùng đất, những trái cây, hoa màu, bàn độc, của quê hương gia đình. Họ đã đi vào cuộc chiến với ý thức rõ ràng và thiết thực của một người nông dân Việt Nam.
Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu dành cho người nông dân đã thể hiện lòng yêu nước, quan điểm chống Pháp đến cùng của tác giả. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm bất hủ trường tồn với thời gian, với lịch sử dân tộc nhờ tấm lòng nhân đạo của nhà thơ với người nông dân yêu nước.
Tác giả của bài viết này miêu tả tinh thần của những người nông dân nghĩa quân rất cao cả và vĩ đại, bởi vì họ đã làm những việc phi thường, họ đã chiến đấu và hy sinh với lòng dũng cảm và quyết tâm lớn cho tình yêu đất nước. Tác giả miêu tả tinh thần đối kháng của họ với thực dân Pháp với một thái độ mạnh mẽ và quyết liệt, bất chấp những nguy hiểm mà họ phải đối mặt, họ hành động theo tiếng gọi của trái tim yêu nước của mình. Nguyễn Đình Chiểu sử dụng động từ để diễn tả sự mãnh liệt của cuộc tấn công, một sau một, quyết đoán, với những khoảng cách ngắn gọn để miêu tả tinh thần tiến công của những người lính khi họ tiến vào trận đánh.
Tác giả ca ngợi và ngưỡng mộ vẻ đẹp của những người nông dân bình thường sống sau hàng rào tre xanh, những người đã trở thành anh hùng và linh hồn của cuộc kháng chiến dân tộc. Sự đau buồn và mất mát của những người đã mất đi những người thân yêu và đất nước của họ vì sự hy sinh của các nghĩa sĩ Cần Giuộc được thể hiện thông qua hình ảnh của đất trời nhuốm màu tang tóc, cong vẹo trước sự hy sinh vì nguyên tắc lớn hơn của những người nông dân.
Bài thơ ca tụng của Nguyễn Đình Chiểu cho các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã trở thành một tác phẩm vĩ đại và hùng tráng thể hiện sự ngưỡng mộ và đau thương sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với những người nông dân yêu nước. Tác giả viết về điều này với một giọng văn cảm động và đau đớn.
Cách sống và quan điểm về sự sống và cái chết của những nghĩa sĩ Cần Giuộc rất đúng đắn và cao quý: họ sẵn sàng hy sinh chính mình để không phải đầu hàng kẻ thù. Chính vì tình yêu đất nước lớn lao, các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã quên mất cuộc sống của chính mình và sẵn sàng hy sinh trong bất cứ tình huống nào, chỉ để chiến đấu cho đất nước của họ.
Tình yêu của Nguyễn Đình Chiểu dành cho những người nông dân được thể hiện thông qua việc viết lách của ông, thể hiện sự chống lại thực dân Pháp mạnh mẽ. Sự hy sinh của các nghĩa sĩ Cần Giuộc đã trở thành một ký ức vĩnh cửu trong lòng nhân dân Việt Nam, người rất ngưỡng mộ và tôn trọng họ. Như vậy, tác giả miêu tả những người nông dân nghĩa quân như một biểu tượng của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại xâm lược của người ngoại bang.
Do đó, tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” đã trở thành một kiệt tác vượt thời gian, phản ánh lịch sử và tinh thần của nhân dân Việt Nam.
3. Phân tích tinh thần nhân đạo ấn tượng
Thường người ta nói “chết là hết”. Cuối cùng thì ai cũng phải chết. Nhưng đôi khi có những cái chết không được chú ý, còn có những cái chết để lại ấn tượng. Các anh hùng yêu nước Can Giuộc đã lựa chọn một cái chết đẹp. Trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, có câu “Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Toàn bộ bài thơ là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” (Phạm Văn Đồng).
Hơn một thế kỉ trôi qua kể từ cuộc khởi nghĩa của những người nông dân Can Giuộc thất bại. Họ ngã xuống giữa chiến trường trong cảnh “da ngựa bọc thây”, “xác phàm vội bỏ”. Họ là những người thất thế, đúng như vậy. Nhưng bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã làm họ “sống lại” trong những hình tượng đầy khí phách hiên ngang. Những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao ấy đã tạo cho bài Văn tế âm hưởng của một khúc ca bi tráng. Các nghĩa sĩ yêu nước Can Giuộc vốn chỉ là những người nông dân hiền lành, quanh năm: “Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung…”. Nhưng khi giặc đến, họ đã trở thành những anh hùng. Nhà thơ nhấn mạnh tinh thần hoàn toàn tự nguyện, tự giác của họ.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Dù triều đình yếu ớt và thường đầu hàng, những người dân cày ruộng đã tự mình đứng lên. Tinh thần “Mến nghĩa làm quân chiêu mộ” của họ rất đáng ngưỡng mộ. Tuy nhiên, họ đã phải vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc chiến: sức mạnh kẻ thù quá lớn, thiếu kĩ năng quân sự, thiếu trang bị và vũ khí. Đoàn quân nông dân chân đất này đã từ những căn nhà rách nát và những cánh đồng cày của họ đi thẳng đến chiến trường, không có cờ treo, trống giục, mũ nón hay giáp trụ, cũng như gươm giáo hay cung tên…
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chị nài sắm dao tu, nón gõ
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”, “gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay.
Họ đã đánh bại kẻ thù, khiến cho họ sợ hãi và bỏ đi. Sức mạnh của họ là sức mạnh tinh thần. Họ dũng cảm đối đầu với súng đạn và đánh lại những kẻ địch là “tàu thiếc, tàu đồng”. Nguyễn Đình Chiểu đã nhớ lại rằng họ là những người nông dân: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Người dân là những người hiền lành, nhưng khi họ yêu nước, sức mạnh căm thù của họ trở nên rất mạnh mẽ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ
Ông đó đã truyền cảm hứng và sức mạnh phi thường cho họ. Họ đã đối mặt với những thử thách một cách táo bạo và không sợ hãi: “Đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”.
Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng và lời nói đẹp đẽ, nhưng vẫn thể hiện sự đau buồn trước thất bại và cái chết của nghĩa quân cần Giuộc. Cái chết này khiến con người, đất trời, cây cỏ đều phải xót xa.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Lắng nghe trong lời văn của Đồ Chiểu như có tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
Ôi thôi thôi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trễ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; Não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Cái bi trong bài thơ là biểu tượng cho đau đớn vì Tổ quốc và nhân dân. Tuy nhiên, đau đớn đó không khiến cho người ta nản lòng hay thối chí, mà ngược lại, nó khơi gợi lòng kiên trì, quyết tâm đứng dậy hiên ngang chống lại sự áp bức của kẻ thù. Dù cho cuộc khởi nghĩa đã thất bại và nhiều nghĩa quân đã phải hy sinh, nhưng cái chết vinh quang của những anh hùng vẫn được người dân tôn vinh và kính trọng.
Chết đi không phải là điều tồi tệ bởi danh tiếng của những người anh hùng đã trở nên nổi tiếng khắp sáu tỉnh, tiếng tăm của họ trải dài suốt muôn đời và được mọi người ngưỡng mộ. Cái chết của họ trở thành tấm gương sáng giúp động viên lực lượng tiếp tục chiến đấu cho cuộc cách mạng.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh…
Ca ngợi người anh hùng chống Mĩ, Nguyễn Văn Trỗi, nhà thơ Tố Hữu viết:
Có những phút làm nên lịch sửCó cái chết hóa thành bất tử.
(Hãy nhớ lấy lời tôi)
Đó là lời ca tụng tuyệt vời về những nghĩa sĩ Cần Giuộc, những người đã cùng nhau đấu tranh để bảo vệ quê hương. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ Văn tế bi tráng để tôn vinh những người anh hùng này, và cảm ơn ông đã dùng tài năng văn học của mình để kể lại câu chuyện về cuộc đấu tranh đầy hy sinh của họ.
Bài Văn tế bi tráng không chỉ là câu chuyện về những nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn là câu chuyện về tinh thần yêu nước và hy sinh của người Việt Nam. Tác phẩm này đã trở thành một biểu tượng quan trọng trong văn học Việt Nam, và được đánh giá cao về giá trị văn học và lịch sử.
Những người nông dân Cần Giuộc đã tự nguyện đứng dậy để đấu tranh chống lại kẻ thù đói giặc, bất chấp những khó khăn và nguy hiểm. Họ đã tạo ra một tấm gương sáng cho thế hệ sau về tinh thần yêu nước và sự hy sinh. Các nghĩa sĩ này đã trở thành những anh hùng trong mắt nhân dân và được tôn vinh trong câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu.
Nhưng bài thơ của ông cũng đầy đau buồn và khổ đau. Cái chết của những nghĩa sĩ Cần Giuộc là một nỗi đau lớn cho quê hương. Tuy nhiên, sự hy sinh của họ đã được tôn vinh và ghi nhận trong lịch sử, và câu thơ của Nguyễn Đình Chiểu đã giúp cho họ được sống lại trong tâm trí của người đọc.