Phát triên kinh tế và vấn đề môi trường có mối tương quan qua lại lẫn nhau. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin lý giải Vì sao việc phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ môi trường?
Mục lục bài viết
1. Phát triển kinh tế là gì?
Phát triển kinh tế xã hội hiểu đơn giản là việc nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Hay nói cách khác việc phát triển kinh tế là quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc gia từ thu nhập thấp thành các nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Thuật ngữ này đôi khi được sử dụng như một từ đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, nhìn chung nó được sử dụng để mô tả sự thay đổi trong nền kinh tế của một quốc gia liên quan đến những cải tiến về chất lượng cũng như số lượng Tuy nhiên trước những biến đổi theo chiều hướng xấu của môi trường trong thời gian gần đây đã đặt ra vấn đề cần có những giải pháp khắc phục kịp thời để hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững. Vậy vì sao phát triển kinh tế phải gắn chặt với bảo vệ môi trường?
2. Lý giải việc gắn sự phát triển kinh tế với môi trường:
2.1. Mối tương quan giữa sự phát triển kinh tế đến môi trường:
Tất cả vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế đều có sự liên quan ít nhiều đến việc biến đổi môi trường sống tự nhiên và nó có thể ảnh hưởng đến chất lượng môi trường theo một trong ba chiều hướng chung nhất:
Thứ nhất, chất lượng môi trường có thể tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế. Ví dụ, thu nhập tăng lên sẽ cung cấp nguồn lực cho các dịch vụ công cộng như vệ sinh môi trường và điện nông thôn. Với những dịch vụ này được phổ biến rộng rãi, các cá nhân không cần phải lo lắng nhiều hơn về sự sống còn hàng ngày và có thể dành nhiều nguồn lực hơn cho việc bảo tồn.
Thứ hai, chất lượng môi trường ban đầu có thể xấu đi nhưng sau đó sẽ được cải thiện khi tốc độ tăng trưởng tăng lên. Trong trường hợp ô nhiễm không khí , ô nhiễm nguồn nước, nạn phá rừng và lấn chiếm, có rất ít chính sách khuyến khích người dân đầu tư vào việc duy trì chất lượng môi trường. Những vấn đề này chỉ có thể được cải thiện khi các quốc gia thận trọng đưa ra các chính sách dài hạn để đảm bảo rằng các nguồn lực bổ sung được dành để giải quyết chúng.
Thứ ba, chất lượng môi trường có thể giảm khi tốc độ tăng trưởng tăng lên. Ví dụ, trong các trường hợp phát thải do xử lý chất thải rắn đô thị, việc giảm thiểu tương đối tốn kém và các chi phí liên quan đến phát thải và chất thải không được coi là cao vì chúng thường do người khác chịu.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, với xu hướng năng suất hiện tại và với mức tăng dân số dự kiến, sản lượng của các nước đang phát triển sẽ cao hơn khoảng năm lần vào năm 2030 so với hiện nay. Sản lượng của các nước công nghiệp tăng chậm hơn nhưng vẫn tăng gấp ba lần so với cùng kỳ. Nếu ô nhiễm môi trường tăng với tốc độ tương tự, những khó khăn nghiêm trọng về môi trường sẽ xảy ra. Hàng chục triệu người sẽ bị bệnh hoặc chết vì các nguyên nhân môi trường, và hành tinh này sẽ bị tổn hại nghiêm trọng và không thể khắc phục được.
Tuy nhiên, phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường hợp lý không phải là không tương thích với nhau. Trên thực tế, nhiều nhà nghiên cứu tin rằnng giữa chúng có mối quan hệ khăng khít lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế sẽ bị suy yếu nếu không có các biện pháp bảo vệ môi trường đầy đủ, và bảo vệ môi trường sẽ thất bại nếu không có tăng trưởng kinh tế.
Việc hoạch định chính sách môi trường luôn phức tạp hơn là chỉ đơn thuần đo lường các tác động mà một chính sách đề xuất đối với môi trường. Nhưng do sự không chắc chắn của khoa học về các mối quan hệ địa lý và sinh học và không có khả năng chung để đo lường tác động của chính sách đối với môi trường, các tác động kinh tế thay vì sinh thái thường được dựa vào để hoạch định chính sách. Các nhà hoạch định chính sách và các tổ chức thường không thể nắm bắt được tác động trực tiếp và gián tiếp của các chính sách đối với sự bền vững sinh thái, họ cũng không biết hành động của mình sẽ ảnh hưởng như thế nào đến các lĩnh vực khác không nằm trong tầm kiểm soát của họ.
Nhiều nhà kinh tế học và nhà môi trường học đương thời cho rằng các chính sách bảo vệ môi trường dù sao cũng nên được đưa vào quá trình ra quyết định chính sách kinh tế. Mục tiêu không nhất thiết là quy giá trị tài nguyên môi trường bằng tiền ; đúng hơn là nên xác định mức độ chất lượng môi trường đang bị bào mòn dần vì tăng trưởng kinh tế, và mức độ tăng trưởng bị bác bỏ dưới danh nghĩa bảo vệ môi trường. Nguy cơ luôn tồn tại là tăng trưởng thu nhập quá nhiều có thể bị xóa bỏ trong tương lai do không làm rõ và giảm thiểu sự đánh đổi cũng như tận dụng các chính sách tốt cho cả tăng trưởng kinh tế và môi trường.
2.2. Thực trạng việc thực hiện phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường ở Việt Nam:
Thời gian qua, công tác bảo vệ môi trường đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo, là một trong ba trụ cột phát triển bền vững, đã tạo được sự chuyển biến và đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng. Tuy nhiên, ô nhiễm môi trường vẫn tiếp tục gia tăng, xảy ra nhiều sự cố gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của nhân dân. Đồng thời còn gây ra hiện tượng biến đổi khí hậu ngày càng nhanh, càng phức tạp. Điều này được thể hiện qua các hiện tượng thiên tai bất thường, thời tiết cực đoan, hạn hán khắc nghiệt và đã gây ảnh hưởng nặng nề đối với Việt Nam. Trong tương lai, biến đổi khí hậu cũng sẽ khiến cho tình trạng ô nhiễm môi trường diễn ra phức tạp hơn, trên nhiều lĩnh vực, như ô nhiễm lưu vực sông, ô nhiễm biển, ô nhiễm không khí…
Ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường, biến đổi khí hậu diễn ra ở Việt Nam chủ yếu do hoạt động phát triển kinh tế – xã hội của đất nước đã và đang được thúc đẩy với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao. Trong một chừng mực nào đó, có thể nói có nhiều nơi, nhiều lúc việc bảo vệ môi trường đã bị xem nhẹ, những nguyên tắc để đảm bảo phát triển bền vững đã không được tuân thủ một cách nghiêm ngặt.
Thực trạng này đã ảnh hưởng rất tiêu cực và nguy hiểm đến mọi mặt của đời sống xã hội. Do đó, phát triển kinh tế với khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường đã trở thành mối quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên và môi trường ở Việt Nam cũng không nằm ngoài thực trạng chung của thế giới, có chăng chỉ là tính cực kì phức tạp, đa dạng và nan giải.
2.3. Hậu quả của phát triển kinh tế đến môi trường:
Sự phát triển kinh tế kéo theo sự tăng trưởng về mặt dân số và đô thị hóa. Quá trình gia tăng dân số nhanh chóng kéo theo những nhu cầu ngày càng tăng về sinh hoạt, giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế, giao thông vận tải, nhà ở, việc làm,… làm gia tăng sức ép đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Riêng chỉ nói đến việc xử lý nước thải sinh hoạt đã là một vấn đề rất lớn. Thành phần các chất gây ô nhiễm chính trong nước thải sinh hoạt là TSS, BOD5, COD, Nitơ và Phốt pho. Ngoài ra còn có các thành phần vô cơ, vi sinh vật và vi trùng gây bệnh. Trong khi đó, tỷ lệ nước thải sinh hoạt được xử lý đạt một tỉ lệ rất ít so với lượng rác thải sinh hoạt sản xuất ra mỗi ngày và có xu hương tăng dần. Đồng thời sự chuyển đổi mô hình kinh tế diễn ra đồng thời với quá trình đô thị hóa và mở rộng địa giới hành chính đô thị, dẫn tới dân số thành thị tăng theo.
Sự phát triển các khu công nghệ cũng là một phần chính sách nhằm phát triển kinh tế. Tuy nhiên điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Hiện nay, để sản xuất các sản phẩm một số khu công nghiệp ở các nước đang phát triển vẫn sử dụng máy móc cũ, thiết bị công nghệ lạc hậu, cần nhiều hơn nguyên liệu và năng lượng, thải ra nhiều hơn chất thải, lại không được xử lý hoặc xử lý không đảm bảo, gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ, Các nhà máy sản xuất xi măng tại vùng đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ của Việt Nam, chiếm 39% tổng sản lượng sản xuất xi măng trên toàn quốc. Hiện nay, công nghệ sản xuất xi măng của nước ta chủ yếu theo phương pháp khô, lò quay.
3. Phương pháp thúc đẩy phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường:
Để đảm bảo việc quản lý phát triển kinh tế gắn với môi trường, các cơ quan tổ chức cần:
Các cơ quan nhà nước cần nhanh chóng vận dụng chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường vào các mục tiêu kinh tế – xã hội cụ thể; Thực hiện lồng ghép mục tiêu bảo vệ môi trường vào các chương trình phát triển kinh tế – xã hội. Quốc hội cần tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật về môi trường, định ra các chế tài xử phạt nghiêm minh. Chính phủ cần có chính sách khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, tránh thất thoát, lãng phí, gây ô nhiễm môi trường. Cơ quan hành chính các cấp cần theo dõi và quản lý chặt chẽ hoạt động bảo vệ môi trường; kiên quyết, kịp thời xử phạt các hành vi gây ô nhiễm môi trường để răn đe, ngăn ngừa các hành vi tái diễn.
Hiện nay, mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn được rất nhiều chuyên gia đánh giá cao bởi mô hình có có đáp ứng được yêu cầu giải quyết ô nhiễm môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu hướng đến mục tiêu phát triển bền vững. Cụ thể, mô hình có các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đều phục vụ để kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường, đặt yếu tố bảo vệ môi trường lên hàng đầu. Và Việt Nam đang quan tâm, định hướng phát triển nhằm giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và nỗ lực phát triển bền vững. Ví dụ điển hình của mô hình này là biến chất thải của nhà máy này làm vật liệu cho nhà máy khác, giảm tối thiểu chất thải ra môi trường, dần tiến gần đến không phát sinh chất thải để có sự phát triển kinh tế.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với lĩnh vực môi trường và kinh tế. Với mô hình này chi phí sản xuất của các khu công nghiệp sẽ được giảm, hơn thế mô hình giúp giảm thiểu rác thải, ô nhiễm cho môi trường. Phát triển kinh tế xanh không làm hại đến môi trường đó là cơ chế phát triển bền vững.